Chính sách giáo dục mới và sự tổ chức các bậc học
Chính phủ nhân dân mới lên cầm quyền đã chú trọng đến việc cải cách căn bản để xây dựng một nền giáo dục mới cho nước Việt Nam. Muốn cho công cuộc cải cách ấy được vững chắc và hợp với nguyện vọng và quyền lợi của quốc dân, Bộ Quốc gia Giáo dục đã cử một Hội đồng Cố vấn học chính, thiết lập do sắc lệnh ngày 10 – 10 – 1945. Hội đồng này gồm những nhà trí thức nam nữ hoặc trong giáo giới, hoặc ngoài giáo giới, nhưng đều là những vị có nhiều kiến thức và lịch duyệt về vấn đề giáo dục.
Sau khi Hội đồng Cố vấn học chính đã thảo luận về dự án cải cách giáo dục của Bộ đưa trình, Bộ Quốc gia Giáo dục đã định rõ chính sách giáo dục sẽ thi hành để thay cái chế độ giáo dục thực dân đặt trên những nguyên tắc bất lợi cho sự phát triển các khả năng của thanh niên và làm cản trở sự tiến hoá của dân tộc mình. Chính sách ấy đã được Hội đồng Chính phủ chuẩn y cùng Ban Thường trực Quốc hội thoả hiệp, và nền giáo dục mới của nước nhà sẽ tổ chức theo sắc lệnh số 146 ngày 10 – 8 – 1946.
Nền giáo dục mới ấy đặt trên ba nguyên tắc căn bản: dân chủ, dân tộc, khoa học, và theo tôn chỉ phụng sự lý tưởng quốc gia1].
Với tinh thần dân chủ, nền giáo dục mới của ta không phải là nền giáo dục dành riêng cho một thiểu số, nhờ ở cảnh sung túc mà có thể theo đuổi sự học đến nơi đến chốn, còn đại đa số dân chúng vì thiếu điều kiện vật chất mà phải chịu ở trong vòng tối tăm của nạn mù chữ hay là ở trong cái cảnh bỡ ngỡ dở dang của người thấp học. Trước đây áp dụng chính sách ngu dân, người ta không những không chịu mở nhiều trường mà lại còn lập ra nhiều luật lệ nghiêm khắc để hạn chế việc học. Nền giáo dục mới của ta sẽ là nền giáo dục chung cho toàn thể quốc dân, không phân biệt hai nền học khác nhau: nền tiểu học cho dân chúng và nền trung học đưa lên bực đại học cho giai cấp tư sản. Nền giáo dục mới sẽ là một nền giáo dục duy nhất và bình đẳng: trên con đường học vấn, các trẻ em sẽ không vì cha mẹ giàu sang hay nghèo hèn mà hơn kém nhau, nhưng chỉ hơn kém nhau vì trí tuệ cao hay thấp, vì các khả năng về tinh thần có nhiều hay ít mà thôi. Một trẻ em nghèo mà thông minh cũng có thể học đến nơi đến chốn như một đứa trẻ con nhà giàu mà thông minh ngang nó: không có sự gì hạn chế, bắt buộc nó phải bỏ dở con đường học vấn. Với nền giáo dục duy nhất và bình đẳng này, chắc có nhiều nhân tài sẽ xuất hiện để giúp ích cho quốc gia, mà xưa kia phải mai một chỉ vì sự giáo dục thiếu tinh thần dân chủ.
Nền giáo dục mới của ta sẽ phát huy tinh thần dân tộc, sẽ khác hẳn nền giáo dục dưới chế độ thực dân. Trước kia bọn thống trị thực dân, muốn cho ta quên cỗi rễ và không thể phát triển được những khả năng đặc biệt của nòi giống, đã áp dụng cái chính sách đồng hoá trong việc giáo dục, mong cho ta thành một bọn vong bản, quên cả tổ tiên anh dũng, quên cả lịch sử vẻ vang, cam tâm làm nô lệ. Nền giáo dục mới, xây dựng trên nguyên tắc dân tộc, sẽ một mặt mở mang những đặc tính, những năng lực của giống nòi, một mặt đào tạo một tinh thần quốc gia mạnh mẽ sáng suốt, để quốc dân biết đem toàn lực phụng sự Tổ quốc trong khi phụng sự lý tưởng dân chủ.
Với tinh thần khoa học, nền giáo dục mới sẽ làm phát triển những năng khiếu của thiếu niên về phương diện sinh lý cũng như về phương diện tâm lý, và không bắt các trẻ em phải làm những việc không hợp với tuổi chúng để những năng lực về thể chất và tinh thần không thể nở nang một cách điều hoà được. Nó sẽ không có tính cách nhồi sọ, với những chương trình quá nặng, làm cho trẻ vì phải vùi đầu suốt ngày đêm trong đống sách, đến nỗi sức lực hao mòn, tinh thần kiệt quệ, đang là một đứa trẻ thông minh lanh lợi mà có thể biến thành một đứa trẻ đần độn lờ đờ. Nó sẽ không quá trọng lý thuyết mà coi rẻ thực hành để cho học vấn không thể đem ứng dụng vào đời sống hàng ngày của cá nhân và đoàn thể. Nó sẽ không quá thiên về mặt giáo huấn mà nhãng bỏ phần dưỡng dục, chỉ chú trọng về trí dục mà coi thường đức dục, để tạo nên những kẻ có học thức nhưng thiếu lương tâm và ý chí, thành ra những phần tử vô ích và có khi có hại cho quốc gia và xã hội. Xây dựng trên nguyên tắc khoa học, nền giáo dục mới sẽ căn cứ vào những định luật về sinh lý và tâm lý và sẽ áp dụng những phương pháp sư phạm mới phát minh để điều hoà sự phát triển những năng khiếu của trẻ em về thể chất cũng như về tinh thần. Chương trình các bậc học, nhất là ở bậc học cơ bản[2] và phổ thông, đều gồm hai phần: phần giáo huấn có mục đích ban phát cho các trẻ em một cái học thức cần thiết và mở mang trí tuệ chung, phần dưỡng dục có mục đích gây cho chúng những tập quán tốt, những đức tính hay, rèn luyện ý chí và huấn luyện tình cảm chung, để sau này chúng trở nên những người có đủ khả năng mà sống mạnh mẽ, một cách có lợi cho mình và cho quốc gia.
Sau hết nền giáo dục mới sẽ có tính cách thực tế, không vì cái mục đích “học thuật vị học thuật” mà bỏ phần thực nghiệp, và sẽ chú trọng về phần thực hành cũng như về phần lý thuyết để gây cho thanh niên một tinh thần khoa học, biết dùng cái học thức vào đời sống của mình và của đoàn thể. Ngang với nền học phổ thông sẽ có một nền học chuyên môn[3] để huấn luyện thanh niên thành những cán bộ đủ năng lực tham gia vào các ngành hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá và dự một phần thiết thực vào công cuộc kiến thiết quốc gia.
Nói tóm lại nền giáo dục mới của nước Việt Nam, thiết lập do Sắc lệnh ngày 10 – 8 – 1946, là một nền giáo dục xây dựng theo quan niệm: “giáo dục vị nhân sinh”, chủ việc rèn luyện đức tính và năng lực của tất cả công dân một cách bình đẳng, chia ra từng ngành học khác nhau không phải vì học sinh thuộc những giai cấp khác nhau mà chỉ vì sự khác nhau về năng khiếu và chí hướng của học sinh, và mục đích không phải là phụng sự học thuật mà là gây một đời sống mạnh mẽ, dồi dào cho cá nhân và đoàn thể.
Cái quan niệm giáo dục này trái hẳn với quan niệm cũ. Cho nên chúng ta chắc chắn ai cũng cảm thấy sự lớn lao cùng tất cả những nỗi khó khăn của một công cuộc cải cách mới; từ việc sửa soạn chương trình, bài dạy, sách học, đến việc lập trường, mở lớp, sắm sửa dụng cụ. Có lẽ công việc khó khăn nhất là việc đào tạo giáo viên mới và huấn luyện lại giáo viên cũ. Bao nhiêu nếp xưa phải xoá bỏ, bao nhiêu đức tính mới phải tự rèn lấy, cả một thái độ tinh thần phải thay đổi!
Việc xây dựng về giáo dục liên quan mật thiết đến công cuộc kiến thiết quốc gia. Nền giáo dục mới sẽ cung cấp cán bộ cho các ngành hoạt động kinh tế trong nước từ những thợ giỏi, những nông dân lành nghề cho đến những cán bộ thực tiễn và cán bộ chỉ huy. Trái lại nền giáo dục mới lại phải nhờ sự phát triển kinh tế mới được mở mang và có cơ sở chắc chắn: những ngành học thực nghiệp, chuyên nghiệp và chuyên môn từ trước đến nay chưa có một tổ chức gì, nay cần phải xây dựng gấp và muốn xây dựng được, nó cần phải được cùng xây dựng với công cuộc kiến thiết kinh tế trong nước.
Vũ Đình Hoè
(* Bài đã đăng trên tạp chí của Hội Sử học Việt Nam Xưa & Nay, số 319, tháng 11 / 2008)
[1] Tất cả những từ gạch chân trong bài này đều do tác giả; trong Sắc lệnh số 146 ngày 10 – 8 – 1946 do Bộ Tư pháp mới công bố trên mạng và giữ bản quyền, thay cho 3 từ gạch chân này là những từ: “đại chúng hoá, dân tộc hoá, khoa học hoá” và tiếp sau các từ “lý tưởng quốc gia” còn có các từ “và dân chủ”. Văn bản này của Bộ Tư pháp hiện còn lưu trong bộ nhớ cache http://vbqppl4.moj.gov.vn/law/vi/1945_to_1950/1945/194510/194510100004 của Google.
[2] sau này dùng từ “tiểu học”.
[3] Theo Điều thứ 7 trong Sắc lệnh 146 ngày 10 – 8 – 1946, thuật ngữ “ngành học chuyên môn” gồm: a) “bậc thực nghiệp” dành cho học sinh đã tốt nghiệp 4 năm “cơ bản” (tức tiểu học) và đã qua 1 năm hướng dẫn – tuyển trạch, vào học nghề tiếp 1 hoặc 3 năm (tuỳ nghề); b) “bậc chuyên nghiệp” dành cho đối tượng đã qua 2 năm dự bị chuyên nghiệp theo phân ban ở bậc học phổ thong (4 năm kế tiếp 4 năm cơ bản) nhằm đào tạo các loại kỹ sư thực hành; số đõ hạng ưu có thể vào thẳng bậc đại học.