GS.TSKH Phạm Đình Thái sinh năm 1934 tại huyện Diễn Châu, Nghệ An, là nhà khoa học đi đầu trong nghiên cứu và ứng dụng phân vi lượng vào phát triển Nông nghiệp ở Việt Nam, đồng thời cũng là một nhà giáo luôn trăn trở và có nhiều đóng góp trong việc dùng khoa học kỹ thuật như một đòn bẩy để phát triển giáo dục vùng dân tộc và ngược lại, thông qua nhà trường để phát triển kinh tế xã hội ở địa phương.
Tiếp xúc với các nghiên cứu viên của Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam từ những ngày đầu Trung tâm mới thành lập (cuối năm 2008), ông đã tin tưởng và tặng Trung tâm nhiều tài liệu quý. Song ông cũng nhận thấy, việc lưu giữ các tư liệu về các nhà khoa học là có ý nghĩa lớn nhưng chưa đủ. Những trí tuệ còn tiềm ẩn trong nhà khoa học; những suy tư, trăn trở, những câu chuyện, những kỷ niệm gắn liền với cuộc đời của nhà khoa học cũng rất cần được khai thác và lưu giữ. Một khi nhà khoa học nào đó ra đi về với tổ tiên thì những thứ đó sẽ vĩnh viễn đi theo họ. Ngày nay, với các phương tiện hiện đại như ghi âm, ghi hình, chúng ta có thể lưu lại được những ký ức của các nhà khoa học, và nó trở thành di sản để lại cho thế hệ sau biết để nghiên cứu và học hỏi. Vậy nên lần này ông muốn chia sẻ nhiều thông tin liên quan đến cuộc sống tuổi thơ và quá trình học tập của mình mà theo ông thì không nhiều người biết, vì ông cũng ít khi chia sẻ… Đó là những ký ức đẹp đẽ, khó khăn gian khổ nhưng cũng tràn đầy tự hào của một thời đại, một thế hệ.
GS.TSKH Phạm Đình Thái (bên phải) trong một chuyến đi nghiên cứu thực địa về phân vi lượng
Xuất thân trong một gia đình trung nông, nhà có vài ba mẫu ruộng là cơ hội, điều kiện để ông được đi học từ bé. Ông kể: Tôi chỉ học tư ở nhà nhưng cũng đỗ sơ học yếu lược năm 1943, tương đương với lớp 3 bây giờ. Cả xã lúc ấy chỉ có mình tôi. Người ta trèo lên một cây si to đọc loa công bố kết quả. Ông thầy dạy tôi nghe xướng tên tôi mừng quá nhảy lên sung sướng. Lúc đó, cả huyện chỉ có một trường tiểu học ở phủ, mà tôi không thi vào được, rồi Nhật đảo chính Pháp, tôi đành quay về nhà học chữ Nho thầy đồ. Con đường tây học chắc khó khăn. Tôi đã học được 2 cuốn: Ấu học và Tam tự kinh. Đến cuối năm 1944, tôi thi được vào trường phủ. Đây là một trường dành cho con nhà giàu, con ông cháu cha, có cả con ông Phủ Quát, con ông Thượng thư Đặng Văn Hướng, họ đi xe kéo hoặc ô tô đến lớp. Tôi ở quê ra, so với tầng lớp đó chỉ là hạ lưu. Có lần, tôi làm bạn đang đọc bài bật cười nên bị thầy bắt phạt quỳ trước bảng, đối mặt với các cô bạn gái ngồi bàn đầu. Đó là lần bị phạt mà tôi rất nhớ. Học xong lớp nhì đệ nhất thì cách mạng thành công, tôi chuyển sang học trường do cách mạng mở dạy.
Quá trình học phổ thông của ông cũng gắn liền với nhiều kỷ niệm. Như ông kể lại: Học xong lớp nhất, năm 1947, tôi vào cấp 2, học Trường Nguyễn Xuân Ôn, là một trường học do cụ Cao Xuân Huy là hiệu trưởng.. Năm 1951 tôi tốt nghiệp cấp 2 và thi lên học ở Trường Trung học Huỳnh Thúc Kháng đang đóng tại huyện Đô Lương. Lúc bấy giờ, để thi vào học Trường này rất khó, mỗi huyện chỉ dăm người đỗ. Nhà cách trường khoảng 50km, tôi ở nhờ nhà dân cùng Nguyễn Huy Hoan và Lê Xuân Thái. Cuộc sống khó khăn, chúng tôi đi lấy củi tự nấu ăn, thỉnh thoảng chủ nhà cho ít sắn. Quê tôi ở Diễn Châu giáp biển, mà trường học thì tận Đô Lương là một huyện miền núi ở Tây Nam của tỉnh. Hàng tháng tôi gánh chè xanh từ Đô Lương – một đặc sản của vùng nơi tôi học, về Diễn Châu, rồi lại gánh gạo từ nhà lên trường để ăn học… Những ký ức đó thật khó mà quên được”.
"Nghĩ lại mà thấy thương cho những ngày xưa"
(GS.TSKH Phạm Đình Thái đang hồi tưởng lại những ký ức của mình với nghiên cứu viên của Trung tâm)
Tốt nghiệp trung học năm 1953, năm 1954 ông ra Hà Nội để học lên cao hơn nữa. Quá trình đi ra Hà Nội để học tập của ông cũng gặp vô vàn gian nan, vất vả. Cuối năm 1953, Đảng và Nhà nước bắt đầu thực hiện cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc. Những sai lầm về phương pháp thực hiện cải cách ruộng đất đã để lại nhiều hậu quả đáng tiếc. Với thành phần gia đình trung nông xấp xỉ phú nông, gia đình Phạm Đình Thái cũng gặp nhiều trắc trở: nhà cửa, ruộng đất bị tịch thu; bị hạn chế hoặc cắt đứt nhiều mối quan hệ, gần như bị cô lập với xung quanh. Có những lúc tưởng không vượt qua được cái đói, may mà có một người hàng xóm tốt bụng đã tiếp cho những nắm cơm, đúng là một miếng khi đói bằng một gói khi no mà gia đình ông vẫn nhớ mãi:
“Ngay từ khi rời bước khỏi quê nhà, một người thân đã mách cho tôi rằng ở Hà Nội chó bán cũng được nhiều tiền nên bảo tôi chịu khó mang mấy con chó con vừa mới sinh ra đó để bán lấy thêm tiền ăn học. Vậy là tôi đi mang theo ba con chó con từ Nghệ An ra Hà Nội. Trên đường đi, người thì ngồi trên nóc xe nhưng chó thì được ở trong xe vì phải giấu dưới gầm ghế. Những lúc chó kêu ăng ẳng, tôi còn không dám nhận là chó của mình vì sợ bị đuổi xuống. Khi xe dừng lại ăn cơm, tôi cố gắng cất lấy một ít để cho ba con chó ăn. Trên xe, tôi quen biết một người phụ nữ cũng đi ra Hà Nội buôn bán. Khi ra Hà Nội, tôi gửi ở một nhà người quen của một người phụ nữ này rồi nhờ họ trông và bán giúp. Sau đó tôi trở lại thì họ bảo bị sổng mất một con và chết một con, chỉ còn một con, vậy mà tiền bán một con chó cũng đủ để tôi sống được gần tháng. Giờ nghĩ lại thấy vừa buồn vừa vui nên câu chuyện này cũng chưa bao giờ kể cho ai nghe cả”.
Khó khăn, gian khổ nhưng … may mắn. Như ông nói “nếu tôi không quyết định ra Hà Nội ngay lúc vừa cải cách ruộng đất thì sau đó không đi được nữa. Khi cải cách ruộng đất lên cao trào, Nghệ An là nơi có phong trào diễn ra khốc liệt với khẩu hiệu “trí, phú, địa, hào đào tận gốc, trốc tận rễ, những con em của những gia đình bị quy địa chủ, phú nông đều rất khó có điều kiện để đi học tập”.
Ra Hà Nội, ông thi vào lớp PCB (lớp Lý-Hóa-Sinh) để chuẩn bị cho thi Đại học. Nhớ lại những tháng ngày này, ông tâm sự: “ Ra Hà Nội đi học là một sự thay đổi lớn. Tôi đã phải vượt qua rất nhiều khó khăn để tiếp tục học. Không nhận được sự chu cấp của gia đình nên tôi phải làm nhiều nghề, từ vác tre gỗ thuê ở bến Phà Đen, bán sách, dán hộp thuốc tiêm cho Xí nghiệp Dược, đến dạy học… chỉ mong có thêm tiền để trang trải cuộc sống và học tập. Nghĩ lại mà thấy thương cho những ngày xưa. Giờ kể lại những chuyện về tuổi thơ của mình, có lẽ thế hệ sau không tin, nhưng đất nước chúng ta đã có một thời như thế”.
Bùi Minh Hào