Nghiên cứu viên (NCV): Giáo sư bắt đầu nghiệp giảng dạy từ thời gian nào và ông có thể kể về những kỷ niệm đáng nhớ?
Giáo sư Trần Ngọc Ân: Nghề dạy học với tôi là một sự tình cờ và là cái duyên. Năm 1954, khi ở vùng kháng chiến về Hà Nội, đồng thời nộp đơn thi trường Đại học Y, tôi cũng nộp đơn thi vào Đại học Văn Khoa. Trong 2 tháng đầu tôi học 2 cả trường nhưng đến khi nghe GS Trần Văn Giàu cho biết: Anh chị nào học một lúc cả hai trường, nhà trường biết sẽ đuổi học cả hai trường, thì lúc này tôi bỏ không học trường Đại học Văn khoa nữa để chuyên tâm học Y.
Học đến năm thứ 5 (1959) tôi và khoảng mười mấy bạn đồng học, trong đó có: Phạm Gia Khải, Nguyễn Khánh Trạch, Nguyễn Khắc Hiền… được tổ chức phân công về Bộ môn Nội tham gia công tác trợ giảng cho sinh viên thực tập. Và cuối 1959 tôi bắt đầu công tác này.
Mỗi người được phân công phụ trách 1 tổ gồm 12-16 sinh viên năm thứ 2, thứ 3. Chúng tôi giảng dạy trong suốt thời gian sinh viên thực tập ở Khoa Nội. Khi sinh viên sang khoa khác thực tập thì do người ở khoa đó phụ trách hướng dẫn.
Chúng tôi giảng dạy thực hành ở Bệnh viện Bạch Mai là chính. Công việc một ngày của người bác sỹ như tôi, ngoài giảng dạy còn nhiệm vụ đi thăm khám bệnh nhân. Buổi sáng trong quá trình khám bệnh, tôi chú ý một số bệnh nhân có biểu hiện bệnh rõ rệt, điển hình như bệnh tim có những tiếng thổi điển hình, cổ chướng, gan to, vàng da… để đến chiều, tôi sẽ giảng trực tiếp cho sinh viên. Cách dạy trên bệnh nhân là tôi học được ở thầy Chung, rất hiệu quả, người học không chỉ nghe mà còn được thấy, được sờ khám, đúng với nghĩa đen. Buổi tối và những ngày nghỉ (Chủ nhật) tôi thường lên thư viện ở đường Lê Thánh Tông tìm tài liệu để học tập, nghiên cứu. Vì là thư viện dành cho cán bộ giảng dạy nên tôi thường gặp những người thầy như Hồ Đắc Di, Đặng Văn Ngữ, Nguyễn Trinh Cơ…Tại đây tôi đã “học lỏm” được cách tìm và tham khảo tài liệu từ các thầy. Và các thầy chính là tấm gương về học tập không ngừng nghỉ để tôi noi theo.
Đến năm thứ 6 tôi bắt đầu nhận lương giảng dạy. Với số tiền 60 đồng một tháng thì chi tiêu của một gia đình gồm 2 vợ chồng và một đứa con như gia đình tôi là thoải mái nhưng với những cán bộ đi học thì thường đông con nên kinh tế gia đình có phần khó khăn hơn.
Nhà trường có phong trào “thầy là Tiểu đội trưởng”. Chính phong trào này làm cho thầy trò rất gần gũi, hiểu được hoàn cảnh của nhau. Điều này cũng giúp ích cho việc dạy và học có hiệu quả. Có một trường hợp mà tôi rất nhớ đó là trong chuyến đưa sinh viên đi thực tập tại Đường Lâm, Sơn Tây (nay thuộc Hà Nội) vào khoảng năm 1967-1968. Một lần thầy trò đang ngồi trò chuyện, hỏi thăm nhau về quê quán và gia đình, tình cờ tôi biết được cô sinh viên tên Vĩnh là con gái của thầy giáo Đĩnh- người thầy đã dạy tôi thời tiểu học ở trường Phát Diệm, Kim Sơn, Ninh Bình (năm 1949). Tôi đã viết thư hỏi thăm thầy giáo cũ và được thầy giao nhiệm vụ dạy dỗ con gái ông là cô sinh viên Vĩnh đó.
GS.TS Trần Ngọc Ân làm việc với Nghiên cứu viên Trung tâm
NCV: Những khó khăn mà Giáo sư gặp phải trong quá trình giảng dạy là gì? Và làm thế nào để ông có thể cải thiện?
Giáo sư Trần Ngọc Ân: Năm 1961, xã hội lúc này tương đối ổn định, thịnh trị, mọi người yên tâm sống và làm việc. Tôi còn nhớ lúc đó có bài thơ “Bài ca Xuân 61” của Tố Hữu có câu “Chào 61 đỉnh cao muôn trượng”.
Tuy nhiên, điều kiện giảng dạy ở nhiều trường Đại học thì vẫn còn sơ sài, thiếu thốn rất nhiều: Sách trong thư viện chủ yếu là sách báo cũ của những năm trước 1954; Nền khoa học chung cả trên thế giới chưa có gì phát triển, trong ngành Y các xét nghiệm cận lâm sàng thiếu thốn, ví dụ: Ngày ấy mới chỉ có điện quang, điện tim, một số xét nghiệm đơn giản mà không có các phương pháp hiện đại như nội soi, siêu âm, chụp cắt lớp, cộng hưởng từ , xét nghiệm miễn dịch…
Và cũng vì sự sơ sài của trang thiết bị như thế nên có những trường hợp cả thầy giáo và học trò tranh luận rất nhiều, đến khi mổ tử thi thì mới biết cả hai đều chẩn đoán chưa chuẩn. Ví dụ như trường hợp một bệnh nhân bị áp xe gan. Các bác sỹ đã tiến hành mổ bỏ ổ áp xe đó nhưng sau 1 tháng thì người bệnh lại bị đau và chết. Khi tiến hành mổ tử thi thì chúng tôi mới phát hiện là người này có 2 ổ áp xe gan, các bác sĩ mới chỉ phát hiện và cắt 1 ổ. Như vậy vẫn còn 1 ổ nữa trong gan nên dẫn đến tử vong.
Những điều này nói lên rằng việc trang thiết bị thô sơ, trình độ còn thấp thì hiệu quả điều trị chỉ có thể dừng lại ở mức nhất định. Các bác sĩ thời đó thường thăm khám bằng lâm sàng là chính. Ai hỏi bệnh được tốt để bệnh nhân tự mô tả về tình trạng trong cơ thể thì từ đó bác sĩ sẽ thu lượm được triệu chứng để chẩn đoán, chữa bệnh hiệu quả hơn.
Trong 2 năm tôi và các bạn đồng khóa may mắn được GS Đặng Văn Chung (Chủ nhiệm Bộ môn Nội) trực tiếp hướng dẫn cách giảng dạy thực hành trên bệnh nhân. Chúng tôi được kèm cặp và hướng dẫn theo phương pháp sư phạm của trường phái Pháp mà GS Đặng Văn Chung được đào tạo. Giáo sư Chung đã uốn nắn từng cách giảng cho chúng tôi: trước bệnh nhân thì giảng giải ra sao? Cách khám bệnh phải thế nào? Phương pháp học này chủ yếu dựa trên thực tế, bám sát vào lâm sàng, vào người bệnh để giảng, khi giảng phải mang tính logic, hợp lý và rất tôn trọng bệnh nhân, trước khi khám phải xin phép, phải trao đổi trước với bệnh nhân, đang thăm khám thấy bệnh nhân đau phải dừng lại ngay.
NCV: Đúc kết kinh nghiệm từ bản thân, theo Giáo sư cách dạy và học như thế mang lại hiểu quả tốt? Và ông đã áp dụng như thế nào vào công việc giảng dạy của mình?
Giáo sư Trần Ngọc Ân: Chúng tôi đã đúc kết lại mấy cách dạy và học hiệu quả từ GS Chung như sau:
Cách 1: Phương pháp học qua đối chiếu lâm sàng và mổ xác, lâm sàng và hình ảnh, lâm sàng nội khoa và kết quả mổ ngoại khoa, lâm sàng và xét nghiệm…
Cách thứ 2: Học từ những buổi Hội chẩn. Thông thường GS Đặng Văn Chung là Chủ tọa. Sau buổi Hội chẩn sẽ tiến hành điều trị, tuy nhiên có bệnh nhân được chữa khỏi, và cũng có bệnh nhân không khỏi bệnh. Tỷ lệ đúng theo Hội chẩn là vào khoảng 70-80%.
Cách thứ 3: Đưa bệnh nhân đến Hội chẩn ở các chuyên khoa khác (Thần kinh, Phụ sản, Tai mũi họng, Ngoại khoa, Xquang) để xác định rõ hơn về bệnh và cũng là cơ hội học hỏi thêm về các chuyên khoa này.
Cách thứ 4: Ở ngành Y thường có những buổi giao ban vào buổi sáng. Thành phần được tham dự giao ban là các bác sĩ, sinh viên nội trú, sinh viên Y 4, Y6. Có 2 cấp giao ban, giao ban cấp phòng mà mình làm việc khoảng 45’, sau đó là đi giao ban toàn Khoa Nội do GS Đặng Văn Chung chủ trì, khi GS Đặng Văn Chung vắng thì có những bác sĩ học lớp trên như: Đỗ Đình Địch, Phạm Khuê phụ trách giao ban. Trong buổi giao ban này, các phòng báo cáo những công việc hôm trước bao gồm bệnh nhân ra và nhập Viện, bệnh nhân tử vong. Từ những bệnh của từng bệnh nhân sẽ phân tích về mặt chẩn đoán, cuối buổi là phần đọc lại kết quả mà bệnh nhân của Khoa Nội được mổ ở Khoa Sản, Khoa Ngoại, kết quả mổ xác của ngày hôm trước để rút ra kinh nghiệm. Sau 5 – 7 năm được tham dự giao ban như thế, tôi rất thích và học được rất nhiều.
Áp dụng những điều đó sau này tôi cũng đã giao ban với các bác sĩ nội trú, sinh viên Y3, Y4 , Y6 ở Khoa nội, Bệnh viện Bạch mai (tại Giảng đường C) và Bệnh viện E (từ năm 1995 khi tôi là Giám đốc Bệnh viện E). Những sinh viên năm đó bây giờ gặp lại đều rất nhớ và thấy rất bổ ích. Khi giao ban tôi thường truy sinh viên đến cùng, có nghĩa là khi sinh viên trình bày bệnh án và chẩn đoán bị bênh này, bệnh kia thì tôi sẽ đưa ra nhiều giả thiết hỏi tại sao là bệnh này mà không phải bệnh kia để sinh viên sử dụng những kiến thức đã học được với tư duy logic và thảo luận trong giao ban. Cuối cùng tôi mới đưa ra kết luận. Bên cạnh đó, những kết quả từ xét nghiệm hay mổ xác là câu trả lời cho những kết luận đó có đúng hay không. Nếu có sai sót thì cả thầy và trò đều rút kinh nghiệm. Với cách học này giúp sinh viên cách tư duy độc lập nên ai học kém thì rất sợ. Khi giao ban tất cả các khoa (Bệnh viện E không có khoa Nhi) tôi đều đưa ra những ý kiến, chủ đề thảo luận rất sôi nổi.
Theo quan điểm của tôi thì người thầy dạy cách tư duy, phương pháp suy nghĩ, làm việc chứ không chỉ truyền đạt kiến thức. Tôi thường hướng dẫn sinh viên tư duy, lập luận vấn đề và tự tìm tài liệu để học.
Một cách học nữa theo tôi cũng rất tốt đó là việc đi thăm khám khi trực đêm (đi tour ban đêm). Thông thường khi tôi đi thăm khám thì có khoảng 10 sinh viên đi cùng. Khi có vấn đề đột xuất xảy ra tôi thường để sinh viên hỏi bệnh và khám chữa bệnh luôn.
Không chỉ giảng dạy về cách thăm khám bệnh nhân mà tôi còn dạy, hướng dẫn sinh viên cùng nghiên cứu. Khoảng năm 1963-1964 nhà trường có phong trào hướng dẫn sinh viên làm các đề tài nghiên cứu. Tôi đã cùng các sinh viên trong đó có sinh viên Nguyễn Quốc Triệu nuôi ong trên phòng C4 của Bệnh viện Bạch Mai để nghiên cứu chữa bệnh khớp. Tôi và nhóm sinh viên đã thử nghiệm cho ong đốt vào khớp người bệnh để xem có tác dụng giảm đau, giảm viêm không.
Đề tài thứ 2 tôi đã hướng dẫn cho một nhóm sinh viên nghiên cứu về tua rễ cây đa. Theo kinh nghiệm cổ truyền thì những tua rễ cây đa khi sắc uống thì sẽ rất lợi tiểu. Tôi và mọi người đã cùng nhau đi xin rễ cây đa ở gần đền Bà Kiệu và Tòa báo Nhân dân (gần tượng Lê Lợi) để về cùng nghiên cứu. Đề tài này đã kết luận tua rễ cây đa có tác dụng lợi tiểu rất tốt với những người bí tiểu; người bị bệnh tim, gan, thận…
Việc hướng dẫn sinh viên nghiên cứu không chỉ giúp cho sinh viên biết về cách nghiên cứu mà còn giúp cho các thầy giáo như tôi cập nhật và củng cố tri thức của mình.
Và hàng năm trường Đại học Y Hà Nội thường tổ chức Hội thi các đề tài của sinh viên. Tên chủ nhiệm đề tài là tôi nhưng sinh viên là người trình bày trong ngày thi.
Người thầy không chỉ truyền thụ những kiến thức chuyên môn mà còn truyền thụ kinh nghiệm về cuộc sống. Muốn truyền đạt được điều đó thì bản thân người thầy phải lăn lộn, nhiều kinh nghiệm với thực tế, ví dụ khi hỏi bệnh người nông dân thì phải biết đời sống, sinh hoạt, phong tục tập quán người bệnh đó. Khi viết đơn thuốc phải hỏi lại xem họ có hiểu hay không, phải giải thích cho bệnh nhân và người nhà đến khi họ hiểu được.
Các thế hệ thầy, trò Khoa Nội Bệnh viện Bạch Mai
NCV: Đã nhiều năm giảng dạy cho sinh viên Y khoa, theo Giáo sư điều gì là quan trọng và cần thiết với người làm nghề giáo?
Giáo sư Trần Ngọc Ân: Người thầy phải mẫu mực, làm gương cho sinh viên không chỉ trong chuyên môn khám chữa bệnh mà kể từ việc nhỏ như cách ăn mặc. Với một người thầy thuốc thì trước hết quần áo phải sạch sẽ, gọn gàng.
Muốn đạt được yêu cầu của một buổi giảng thì theo tôi nên tuân thủ một số nguyên tắc sư phạm như:
Đúng giờ: đúng giờ lên lớp và đúng giờ kết thúc, tránh tình trạng kéo dài thời gian so với giờ quy định. Khi giảng quá giờ thì lúc đó sinh viên đã đói và mệt nên việc tiếp thu kiến thức lúc này là bị nhồi nhét, không đảm bảo. Cách giảng như thế nhiều khi lại là Phản sư phạm.
Bài giảng phải có sự chuẩn bị giáo án kỹ lưỡng, có phần mở đầu nói về những nội dung của bài giảng cần truyền tải. Và kết thúc giờ giảng cần xem có thực hiện được những nội dung đã đưa ra không. Tôi thường giảng để sinh viên có thể nhớ được những điều căn bản, dấu hiệu chính của căn bệnh đó. Ví dụ: Với những bệnh nhân bị bệnh gút thì sinh viên phải nhớ những điểm: Bệnh thường xảy ra ở nam giới; người hay ăn nhậu, bia rượu; có dấu hiệu sưng khớp ở bàn chân, ngón chân và gây nóng, đỏ, đau dữ dội; thời gian bị bệnh ngắn nhưng thường bị tái phát nhiều lần; nhạy cảm với thuốc đặc hiệu…
Khi giảng để hấp dẫn người nghe, giọng nói phải có ngữ điệu, to, nhỏ, lên bổng, xuống thấp thể hiện những điểm muốn nhấn mạnh. Nếu thấy sinh viên có dấu hiệu không lắng nghe, chán nản thì giảng viên nên chuyển đề tài hoặc kể một câu chuyện liên quan đến bài giảng đó.
NCV: Việc dạy và học trong trường có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình thực hành điều trị sau này của các thầy thuốc. Vậy theo GS, những vấn nạn của ngành Y hiện nay trên cả 2 lĩnh vực trên là gì?
Giáo sư Trần Ngọc Ân: Hiện nay việc khám chữa bệnh không được chất lượng như trước đây, điều này cũng do nhiều nguyên nhân tác động vào như: bệnh nhân quá đông, khiến bác sĩ phải khám nhanh để giải quyết được nhiều bệnh nhân. Nhiều khi cũng là thành tích. Nhưng cũng một phần do quá trình dạy và học chưa thực hiện được những nguyên tắc của ngành.
Trên thực tế, đâu đó trong ngành Y vẫn có hiện tượng chạy theo học hàm, học vị nhằm tạo điều kiện cho việc tạo danh kiếm tiền vì lợi ích riêng mà chưa thực sự vì mục đích bồi dưỡng, đào tạo thầy thuốc cho đất nước.
Tuy đã về hưu nhưng những thế hệ như chúng tôi, khi vẫn còn minh mẫn và sức khỏe vẫn muốn đem những kinh nghiệm kiến thức đã học được để truyền lại cho thế hệ bây giờ nhưng có lẽ cơ hội không còn nhiều.
NCV: Thưa Giáo sư, thực ra ông vẫn đang có nhiều đóng góp trong vai trò một người thầy với nhiều cách khác nhau. Xin trân trọng cảm ơn Giáo sư về cuộc trò chuyện này và chúc ông luôn dồi dào sức khoẻ để tiếp tục cống hiến trong sự nghiệp làm thầy thuốc và thầy giáo của mình.
Nguyễn Thị Phương Thúy
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam