Những kỷ niệm với GS Đặng Văn Ngữ

Được sự dìu dắt của GS Đặng Văn Ngữ, Phạm Huy Dũng đến với chuyên ngành Ký sinh trùng. Ông tâm sự: GS Ngữ là thầy dẫn dắt tôi vào nghề, thầy cũng là người dạy cho tôi những bài học quý, cả đời này tôi luôn kính trọng thầy Đặng Văn Ngữ và mãi mãi nhớ ơn thầy.

 Sau khi tốt nghiệp khóa 1955-1961 trường Đại học Y Hà Nội, Phạm Huy Dũng được phân công về làm việc tại Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn trùng (nay là Viện Sốt rét – Ký sinh trùng – Côn trùng Trung ương) dưới sự dìu dắt của GS Đặng Văn Ngữ. Khi Viện Sốt rét chuyển từ số 5 Quang Trung về 245 Lương Thế Vinh, mặc dù nhà Phạm Huy Dũng ở không xa Viện nhưng GS Ngữ muốn ông vào Viện ở để thuận tiện cho việc học phụ đạo. Cùng được GS Ngữ phụ đạo với ông có Phạm Huy Tiến, Siu Ba San, Nguyễn Văn Kim (sau này là Phó Giáo sư công tác tại TP Hồ Chí Minh). Các giờ học được tổ chức vào buổi tối, mỗi buổi một trò với các nội dung, phương pháp khác nhau. Phạm Huy Dũng vẫn nhớ, hình ảnh GS Ngữ trong các giờ dạy phụ đạo, giảng đường chính tại căn phòng ở của GS Ngữ được Viện Sốt rét cấp cho ông. Khi Phạm Huy Dũng đến học, GS Ngữ đã quần áo chỉnh tề: áo đại cán, đi giày Tây và ngồi đợi. Còn trò Phạm Huy Dũng, do nghĩ đơn giản là buổi học thêm, lại có mấy thầy trò nên vẫn mặc quần áo ở nhà và đi dép lê. Giáo sư Ngữ thấy vậy liền nhắc nhở ông cần ăn mặc chỉnh tề khi sang học. Phạm Huy Dũng về thay đồ nhưng vẫn đi dép lê. Một lần nữa Thầy Ngữ chưa hài lòng về tác phong của ông, ông lại về thay dép. Tác phong ngồi học, GS Ngữ cũng yêu cầu ông phải nghiêm chỉnh như trên giảng đường. Chính những yêu cầu khắt khe tuy nhỏ nhưng mang ý nghĩa giáo dục của GS Ngữ khi đó, đã tạo cho Phạm Huy Dũng ý thức nền nếp không chỉ trong học tập, làm việc mà còn rèn cho ông một thái độ nghiêm túc trong cuộc sống.

 

GS.TS Phạm Huy Dũng, nguyên Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Y tế

Ở GS Đặng Văn Ngữ có cách đào tạo cũng rất đặc biệt. Những buổi đầu khi mới nhận công tác, GS Ngữ đưa cho Phạm Huy Dũng một bài báo khoa học bằng tiếng Anh, yêu cầu ông đọc và trình bày lại nội dung chính cho thầy nghe, sau đó GS Ngữ sẽ giải thích và nhận xét bổ sung. Tiếp đó, GS Ngữ yêu cầu ông đọc 2-3 bài báo tiếng Anh có số liệu thống kê, rồi trình bày tổng hợp vấn đề của các bài báo đó. Từ việc đọc một vài bài báo, GS Ngữ yêu cầu ông đọc sách “Thống kê sinh học” bằng tiếng Anh và “Dịch tễ học” bằng tiếng Pháp. Sau khi đọc xong, ông phải tổng hợp được các thông tin về nội dung từ các bài báo. Ngoài ra, GS Ngữ còn yêu cầu ông dựa vào lý thuyết cuốn sách “Thống kê sinh học” rút ra được phương pháp thống kê được sử dụng trong sách vận dụng vào quá trình nghiên cứu của mình. Đó là cách đào tạo của Thầy thông qua việc đọc sách, tổng hợp các thông tin quan trọng từ nội dung những cuốn sách, bài báo khác nhau. Trong quá trình giảng dạy, GS Ngữ luôn nhấn mạnh với học trò: phải gắn phương pháp thống kê vào nội dung học và nghiên cứu mới mang lại hiệu quả cao. Với Phạm Huy Dũng, đó là những bài học vô cùng quý giá mà ông học được từ thầy Ngữ, ông luôn quan niệm: Những gì thầy mang lại cho mình thì mình mang lại cho đời, mà mang lại cho đời thì trước hết là truyền lại cho con cháu, cho học trò. Có lẽ, cũng với cách học này mà hai con trai của ông là Phạm Huy Hiền Hào, Phạm Huy Tuấn Kiệt hiện đã là Phó Giáo sư của ngành Y học.

Để phục vụ cho công tác tra cứu, GS Đặng Văn Ngữ sử dụng các phiếu (phích) đục lỗ1. Hồi ấy, GS Ngữ được một số đồng nghiệp ở Viện Ký sinh trùng Liên Xô gửi tặng các phiếu trắng, từ các phiếu này thầy Ngữ đã hướng dẫn các trò Phạm Huy Dũng, Nguyễn Văn Kim, Nguyễn Thọ Viễn, Phạm Huy Tiến, Siu Ba San cách phân loại, chú thích tài liệu. Việc sử dụng phiếu đục lỗ sẽ giúp các ông giảm bớt được thời gian tra cứu tài liệu khi chưa có máy tính. Thời đó, chưa có máy tính toán hiện đại như bây giờ, một số bài tập thầy giao cần tính cộng trừ nhân chia mất thời gian. Để tính nhanh, Phạm Huy Dũng sử dụng thước logarit. Ông thường mang thước theo người để tiện cho việc tính toán, đặc biệt là sau khi đọc xong các tài liệu.

Thời gian công tác tại Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn trùng dưới sự hướng dẫn của GS Đặng Văn Ngữ (1961-1967), có một kỷ niệm khiến Phạm Huy Dũng nhớ nhất. Đó là vào năm 1963, khi Bộ Y tế giao nhiệm vụ cho Sở Y tế Hà Nội có trách nhiệm diệt dịch côn trùng. Thời gian này, GS Ngữ đã tổ chức một nhóm nghiên cứu về diệt côn trùng, gồm năm người: Phạm Huy Dũng – trưởng nhóm, anh Tường, anh Khánh, anh Thắng và chị Lịch. Lúc đó, bên bờ sông Hồng (gần cầu Chương Dương hiện nay) có một khu là bãi rác thải của thành phố (sau này, bãi rác này chuyển sang Sóc Sơn, Hà Nội), đó là nơi khu trú của rất nhiều ruồi. Đó là nguyên nhân gây các bệnh dịch truyền nhiễm, ảnh hưởng đến sức khỏe nhân dân. Ông Nguyễn Văn Tín, lúc đó là Giám đốc Sở Y tế Hà Nội (sau là Thứ trưởng Bộ Y tế) đã đặt vấn đề với Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn trùng hỗ trợ Sở Y tế Hà Nội nhanh chóng diệt côn trùng đang phát triển. Sau đó, GS Đặng Văn Ngữ giao nhiệm vụ cho Trưởng nhóm Phạm Huy Dũng cùng các đồng nghiệp nghiên cứu cách diệt các bãi ruồi trong thành phố. Những năm 1960, những chế phẩm phục vụ ngành Y ở nước ta còn khan hiếm, Viện không có dung dịch DDVP mà chỉ có thuốc trừ sâu Dipterex3. Dưới sự hướng dẫn của GS Ngữ, nhóm đã tiến hành pha chế chuyển từ thuốc Dipterex sang DDVP. Cả nhóm thực hiện pha chế thuốc với các phương tiện đơn sơ ở Trạm Vệ sinh phòng dịch Hà Nội (trước ở số 51 Hàng Bài). Bình phun dung dịch DDVP là những bình phun sơn (hồi đó thường sử dụng loại bình này phun sơn cho xe đạp). Ông đã mượn 4 bình phun sơn và đặt ở 4 góc bãi rác. Các bình phun DDVP ra từ 4 phía, tập trung tiêu diệt toàn bộ côn trùng trên bãi rác. Với sự nỗ lực của các thành viên và được GS Ngữ định hướng, nhóm diệt côn trùng đã góp phần ngăn chặn được các bệnh dịch truyền nhiễm từ ruồi, giảm ảnh hưởng đến sức khỏe nhân dân vùng ven đô lúc bấy giờ.

Nhiệm vụ diệt ruồi được nhóm tiến hành thành công ngoài mong đợi. Cả nhóm được Sở Y tế Hà Nội chiêu đãi một bữa thịnh soạn tại Khách sạn Metropole Hà Nội. Cũng trong buổi chiêu đãi, nhóm còn giúp Khách sạn này diệt ruồi và thạch sùng trước khi tổ chức một Hội nghị quốc tế lớn.

Năm 1967, GS Đặng Văn Ngữ hy sinh khi đang làm nhiệm vụ nghiên cứu biện pháp phòng chống sốt rét cho bộ đội ta tại chiến trường Trị – Thiên. Dù không còn cơ hội nhận được sự dìu dắt của Thầy Ngữ nhưng Phạm Huy Dũng vẫn tiếp tục nghiên cứu về Vắc-xin chống sốt rét và tìm hiểu về “Đặc điểm miễn dịch trong sốt rét” thể hiện ở Luận văn chuyên khoa 2 và Luận án Tiến sĩ của ông với đề tài “Điều trị sốt rét ác tính”.

Cho đến nay những kỷ niệm với thầy Đặng Văn Ngữ luôn được GS.TS Phạm Huy Dũng trân trọng, bởi đó không đơn thuần là kỷ niệm mà còn là những bài học quý ông học được từ người thầy đáng kính của mình.

 

GS.TS Phạm Huy Dũng sinh ngày 06-7-1937 tại huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên.

– Ông công tác tại Viện Sốt rét, Ký sinh trùng và Côn trùng (1961-1982).

– Giảng viên trường Đại học Y Hà Nội (1983-1999).

– Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Y tế (2000-2004).

Với những đóng góp cho ngành Y học, ông được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Ba; Huy chương Vì sự nghiệp Giáo dục; Huy chương Vì sự nghiệp Y tế.

 

Nguyễn Thị Loan

________________________

1. Phiếu (phích) đục lỗ: là loại phiếu để ghi các nội dung, thông tin cơ bản về sách, báo, tài liệu… thường được sử dụng trong các thư viện để tra cứu tài liệu khi chưa có máy tính.

2. DDVP có công thức hóa học là C4H7Cl2O4P, thuốc còn có các tên gọi khác: Nuvan, Vapona, Nogos, Desvap lcos… là một chất lỏng không màu, mùi tương đối dễ chịu, có tác dụng diệt ruồi và các côn trùng gây hại khác.

3. Dipterex có công thức hóa học là C4H8Cl3O4P có nhiều tên gọi khác nhau: Anthon, Bovinos, Briten, Ciclosom, Pronto… là hợp chất hóa học dạng tinh thể màu vàng trắng nhạt, có mùi ethyl ether thường dùng để diệt các loại sâu bọ, côn trùng.