Cả nhà cùng làm việc

Tháng 1-1992, Bộ Chính trị thông qua chương trình xây dựng đường dây tải điện 500KV Bắc – Nam với mục tiêu truyền tải lượng điện năng từ miền Bắc cho miền Nam đang thiếu điện nghiêm trọng, đồng thời liên kết hệ thống điện cục bộ của ba miền. Ngày 5-4-1992, lễ khởi công xây dựng đường dây 500KV được tiến hành tại Hòa Bình. Bộ Năng lượng[1] giao cho 5 đơn vị thi công xây lắp đường dây 500KV gồm: Tổng Công ty Xây dựng Thủy điện Sông Đà[2], Công ty Xây lắp điện 1[3], Công ty Xây lắp điện 2[4], Công ty Xây lắp điện 3[5] và Công ty Xây lắp điện 4[6].

Về phần Công ty Xây lắp điện 1, có 11 đơn vị thi công gồm: Xí nghiệp Xây dựng, Xí nghiệp Cơ giới và Xí nghiệp Cơ khí điện cùng 8 đội thi công. Khoảng tháng 10-1990 khi “Luận chứng kinh tế kỹ thuật hệ thống truyền tải điện 500KV Bắc – Nam” đang được xây dựng thì bà Phạm Thị Oanh – vợ PGS Tạ Ngọc Hải được Giám đốc Nguyễn Văn Tân đề bạt làm Phó giám đốc kỹ thuật Xí nghiệp Cơ khí điện với nhiệm vụ chuẩn bị cho việc xây lắp đường dây 500KV. Xí nghiệp Cơ khí điện phụ trách xây lắp 48,685km đường dây điện với 94 cột điện. Đường điện kéo dài dọc theo tỉnh Nghệ An từ xã Đại Sơn (Đô Lương), xã Nghi Kiều (Nghi Lộc), qua dốc Truông Bồn sang khu vực huyện Nam Đàn với các xã: Nam Thành, Vân Diên rồi vượt sông Lam sang Nam Tân, Nam Lộc, Khánh Sơn 1, Khánh Sơn 2, Nam Kim đến huyện Đức Thọ. Bởi vậy, từ tháng 4-1992, bà Oanh cùng các đồng nghiệp chuyển vào Nghệ An làm việc. Với cương vị là Phó giám đốc kỹ thuật, bà điều hành mọi công việc chung trong quá trình thi công.

Một vị trí cột đỡ do Xí nghiệp Cơ khí điện thi công

đang được kiểm tra nghiệm thu

Công việc xây lắp đường dây 500KV được tiến hành theo phương châm “vừa thiết kế vừa thi công”. Vì vậy, sau khi nhận được bản thiết kế, bà Oanh cùng cộng sự đi thực địa nhằm phát hiện kịp thời những bất hợp lý trong thiết kế và yêu cầu Công ty Khảo sát thiết kế điện 1[7] sửa chữa. Nhóm yêu cầu chỉnh sửa chiều cao cột đỡ cho phù hợp với địa hình thực tế cũng như một số điểm phải chuyển từ đổ móng cọc sang móng bản cho phù hợp với điều kiện địa chất và đảm bảo tiến độ thi công.

 

Bà Phạm Thị Oanh vui mừng đón Thủ tướng Võ Văn Kiệt (áo xanh) và đoàn kiểm tra tiến độ thi công của Công ty Xây lắp điện 1, Nghệ An, 18-5-1992

Theo bà Phạm Thị Oanh chia sẻ, đường dây 500KV lắp song song hai loại dây chống sét, ngoài dây chuyên dụng còn có cáp quang với lớp bọc chống sét. Dây cáp quang dùng để điều khiển đường dây điện và truyền tải thông tin. Dây do Nhật Bản cung cấp nên một đoàn cán bộ của Công ty Xây lắp điện 1 được cử sang đó để học cách lắp đặt và hàn nối cáp quang. Khi hoàn thành lớp đào tạo trở về, họ đã phổ biến kiến thức cho các nhân viên khác để thành lập hai nhóm chuyên hàn nối cáp quang. Lúc này, anh Tạ Minh Dương – con trai lớn của bà Oanh cũng đang công tác tại Xí nghiệp Cơ khí điện, dù không đi Nhật nhưng anh thông thạo máy tính, tiếng Anh nên được chọn tham gia nhóm thứ hai. Anh trực tiếp làm việc với tư vấn giám sát người New Zealand. Bà Oanh cho biết: Sau này, nhà nước cho các công ty truyền thông cùng khai thác cáp quang bởi đường dây điện không sử dụng hết công năng của nó[8]. Mỗi cột điện đều có bốn dây tiếp đất để chống sét nên Xí nghiệp Cơ khí điện còn phụ trách đo điện trở tiếp địa[9] cho toàn bộ quãng đường mà Công ty Xây lắp điện 1 kéo dây (từ đầu tuyến Hòa Bình cho tới trạm bù[10] Hà Tĩnh).

PGS Tạ Ngọc Hải (bên trái) cùng ông Giá (Công ty Xây lắp điện 1)

 kiểm tra quá trình thử nghiệm dụng cụ do nhóm ông chế tạo, 6-12-1993

Một thành viên khác trong gia đình tham gia rất tích cực vào công trình này đó là PGS Tạ Ngọc Hải. Trong quá trình công tác, ông luôn quan tâm nghiên cứu những vấn đề có thể ứng dụng, phục vụ cho đời sống của con người. Từ năm 1965, khi cùng thầy trò trường Đại học Bách khoa Hà Nội sơ tán lên Lạng Sơn ông đã cùng một số đồng nghiệp chế tạo guồng nước tạo điện phục vụ thắp sáng cho các phòng học; sau này ông nhận nhiệm vụ khử rung cho các thiết bị ở nhà máy Cẩm Phả, Quảng Ninh hay tận dụng lực rung của động cơ máy nhằm thực hiện các công nghệ cần thiết như công nghệ mài; phối hợp với bộ môn Công nghệ chế tạo máy của khoa Cơ khí để thực hiện công nghệ ép nén rung tạo ra gạch không nung; khử rung – cân bằng máy nén khí cho trạm biến áp 220KV Ba La (Hà Đông)…

Khoảng năm 1993, khi bà Phạm Thị Oanh đang thực hiện việc xây lắp đường dây 500KV, bà thường chia sẻ với chồng về việc thiếu dụng cụ kéo (MK) và nối dây (hàm ép) phù hợp nên ông cũng quan tâm, tìm hiểu. Về sau, đồng nghiệp của vợ – ông Giá,  Phó trưởng phòng Kỹ thuật của Công ty Xây lắp điện 1 đề nghị ông giúp họ chế tạo dụng cụ kéo và nối dây theo mẫu của Nga. Với niềm đam mê nghiên cứu khoa học để ứng dụng vào thực tiễn, ông Hải đồng ý nhưng chưa vội ký hợp đồng mà muốn có thời gian nghiên cứu trước. Ông cùng ba học trò cũ của mình là: hai anh Thịnh và Nguyên ở Nhà máy Cơ khí Trung quy mô, anh Lập ở Nhà máy Chế tạo dụng cụ cắt gọt cùng bắt tay vào nghiên cứu, chế tạo hai dụng cụ theo đặt hàng. Ông Hải đảm trách phần nghiên cứu, thiết kế bằng autocad. Dựa trên mẫu có sẵn của Nga, ông nghiên cứu và thiết kế sao cho phù hợp với việc sử dụng ở Việt Nam. Sau đó, ông đưa bản thiết kế cho ba học trò chế tạo thử. Ông chia sẻ: Thuở đó, việc một người ngoài vào nhà máy là không dễ dàng bởi có nhiều thông tin cơ mật. Tôi làm việc với các học trò chủ yếu đến nhà riêng để trao đổi[11]. Sau khi chế tạo được dụng cụ mẫu, ông Tạ Ngọc Hải đem mẫu đến phòng thí nghiệm của bộ môn Sức bền vật liệu, trường Đại học Bách khoa Hà Nội thử nghiệm và đạt kết quả tốt. Lúc này, ông chính thức nhận lời ký hợp đồng. Thuở đó, từng cá nhân chưa thể ký hợp đồng kinh tế nên ông đề nghị Công ty Bách khoa của trường Đại học Bách khoa Hà Nội thay mình ký hợp đồng với điều kiện trích cho họ 5% lợi nhuận. Trong quá trình chế tạo dụng cụ, các ông thấy rằng dụng cụ của Nhật nhỏ gọn và tiện dụng hơn nên có tham khảo mẫu mã của họ để cải tiến dụng cụ.

Sau khi nhóm của PGS Tạ Ngọc Hải chế tạo thành công dụng cụ kéo, nối dây điện và ký hợp đồng với Công ty Xây lắp điện 1 thì các Công ty Xây lắp điện 2 và 4 cũng đến tìm ông ký hợp đồng. Do vậy, phần lớn dây dẫn và dây chống sét của đường điện 500KV được kéo lên cột là đều nhờ các dụng cụ mà nhóm ông chế tạo. Năm 1994, việc lắp đường dây 500KV Bắc – Nam được hoàn thành.

Dù tham gia dự án xây lắp đường dây 500KV ở những thời điểm khác nhau và mỗi người có công việc riêng nhưng cả ba thành viên trong gia đình nhỏ của PGS Tạ Ngọc Hải đều đã cố gắng hết mình vì công việc chung, góp sức mình cho sự hoàn thành của một công trình lịch sử được coi là kỳ tích của thế kỷ XX.

Lợi Lê

 

 

 


* PGS Tạ Ngọc Hải, chuyên ngành Cơ khí, nguyên Phó chủ nhiệm bộ môn Nguyên lý – Chi tiết máy, trường Đại học Bách khoa Hà Nội.

[1] Nay là Bộ Công thương.

[2] Nay là Tổng Công ty Sông Đà.

[3] Nay là Công ty Cổ phần Tập đoàn PC1.

[4] Nay là Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên xây lắp điện 2.

[5] Nay là Tổng Công ty Cổ phần xây dựng điện Việt Nam.

[6] Nay là Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên xây lắp điện 4.

[7] Nay là Công ty Cổ phần tư vấn xây dựng điện 1.

[8] Tài liệu ghi âm PGS Tạ Ngọc Hải, 6-8-2018, lưu trữ tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam.

[9] Đo điện trở tiếp địa là cách kiểm tra khả năng phóng – truyền điện của hệ thống chống sét.

[10] Trạm bù được xây dựng nhằm mục đích là giúp dòng điện luôn ổn định, nơi nào dòng điện lên cao nó sẽ kéo xuống, ngược lại, nơi nào điện yếu trạm bù này sẽ bổ sung điện áp.

[11] Tài liệu ghi âm PGS Tạ Ngọc Hải, 6-8-2018, đã dẫn.