Tháng 4-1977, GS Tôn Thất Tùng cùng với phái đoàn cán bộ của Việt Nam do Thủ tướng Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang thăm Pháp và ký kết một Hiệp ước[1] về hợp tác văn hóa với Pháp. Sau khi ký Hiệp ước này, GS Tôn Thất Tùng được Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ thị ở lại Paris thêm hai tuần nhằm:
1. Xem xét ảnh hưởng của sự ký kết này đối với trí thức Pháp và khả năng tận dụng họ để thực hiện hiệp ước một cách thuận lợi cho khoa học nước nhà.
2. Giải thích cho trí thức Việt kiều ở Pháp hiểu được chính sách của Chính phủ Việt Nam.
Trong hai nhiệm vụ trên, GS Tôn Thất Tùng chịu trách nhiệm phụ trách tìm hiểu và vận động các trí thức Pháp và trí thức Việt kiều; ông Võ Văn Sung – Đại sứ Việt Nam tại Pháp sẽ tìm hiểu và vận động những Việt kiều khác đang sinh sống và làm việc ở Pháp, đặc biệt là ở Paris.
Giáo sư Tôn Thất Tùng
Với chỉ thị của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, GS Tôn Thất Tùng đã ở lại Paris và làm việc trong 18 ngày, từ 31-4 đến 17-5-1977. Ngày nào cũng làm việc từ lúc 8 giờ sáng liên tục cho đến 2 giờ đêm, ban ngày gặp các trí thức và các nhà khoa học Pháp, sau đó là làm việc với các trí thức Việt Nam Việt kiều trong ngành Y, cũng như các ngành khoa học khác. Trong những ngày làm việc ở Pháp, GS Tôn Thất Tùng đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của hai nhóm Việt kiều tích cực và có trình độ cao: Nhóm ngành Toán ở Đại học Paris VII; Nhóm Bách khoa và cầu cống.
Nhằm tiến tới tìm hiểu và đặt vấn đề hợp tác trong khoa học nói chung, Y học nói riêng và kêu gọi các nguồn viện trợ cho Việt Nam, GS Tôn Thất Tùng đã đến thăm và làm việc với các tổ chức: Trung tâm Nghiên cứu khoa học Quốc gia Pháp (Centre National de la Recherche Scientifique (CNRS)), Viện Pasteur, Đại học Paris VII, Trường Polytechnique, Trường Ponts et Chausséesm,…đồng thời tiến hành gặp các nhân vật, trí thức có ảnh hưởng lớn như: GS René Thom (người được nhận Giải thưởng Fields); GS Mechel – nhà khoa học xuất sắc về Vật lý của Pháp; GS Lempel – nhà Vật lý chất rắn; GS Ruell – Vật lý thống kê,…
Đặc biệt, ông đã gặp được một số nhà khoa học có tầm ảnh hưởng lớn trong giới trí thức Pháp như GS Robert Debré – một người tiêu biểu của nền Y học Pháp. GS Robert Debré đã tiếp GS Tôn Thất Tùng tại Trung tâm Nghiên cứu quốc tế về Nhi đồng và Thiếu niên, và đánh giá cao về Việt Nam: “Chúng tôi hôm nay rất vinh dự và sung sướng đón tiếp một nhân vật Việt Nam đại biểu cho một dân tộc anh hùng trong những dân tộc anh hùng. Xưa kia sử sách còn ghi lại sự hy sinh dũng cảm của 300 người Hi Lạp đã giữ vùng đèo Thermopyle, dưới sự chỉ huy của Leonidas chống lại ngoại xâm Perse. Nhân dân Việt Nam còn hơn Hi Lạp đã nêu cao tinh thần bất khuất đánh trả máy bay B52 …”[2].
Tại trường Đại học Paris VII, GS Tôn Thất Tùng đã có một số buổi giảng bài ở Khoa Ecotoxicologie, Bệnh viện P.Brousse, Bệnh viện Eaubonne. Ông đã tham quan các phòng thí nghiệm về sinh học tế bào, sinh học phân tử,… và nhận được những sự chia sẻ chân tình từ các nhà khoa học ở đây. Nữ GS Simone Pruseux người Pháp gốc Việt – Nga nói với ông rằng: “Anh nên coi tôi như người dân Việt Nam, cần gì tôi sẽ hết sức giúp”. Ngoài ra ông đã đến gặp Chủ tịch Hội đồng giáo sư Đại học Paris VII để trao đổi về đề nghị hợp tác giữa Đại học Paris VII và Hà Nội, thăm các giảng viên của Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa,…
Thông qua các tổ chức: Ban lãnh đạo liên hiệp Việt kiều; Ban Y học liên hiệp Việt kiều; Ban phụ trách sinh viên Y khoa Việt kiều, GS Tôn Thất Tùng đã có những cuộc gặp gỡ trí thức Việt kiều. Ông cũng đã tận dụng sự hỗ trợ từ các Việt kiều đang sinh sống và làm việc ở đây như vợ chồng GS Vĩnh Mậu (cháu của GS Bửu Hội), là hai nhà Vật lý dạy ở Orsay; GS Trân, dạy về Vật lý lý thuyết ở trường Polytechnique,… Qua những người này, ông đã nhờ liên hệ với kỹ sư Nguyễn Văn Phúc[3] ở tỉnh Toulouse lên Paris để trao đổi và mời về Việt Nam giúp đỡ việc sản xuất máy bay. Khi đó ông Phúc đang làm việc tại cơ sở sản xuất máy bay của tỉnh Toulousse, cơ sở sản xuất máy bay dân dụng lớn nhất của Pháp. Sau khi gặp và trao đổi với GS Tôn Thất Tùng tại Paris, ông Phúc đã nhận lời về giúp đỡ nước nhà trong cùng năm đó.
Thông qua những ngày làm việc ở Paris, trao đổi hợp tác với các nhà khoa học và các tổ chức, các trường, Viện nghiên cứu, GS Tôn Thất Tùng đã đạt được một số các trao đổi hợp tác về khoa học giữa hai nước Việt – Pháp. Thứ nhất là vấn đề viện trợ trang thiết bị. Từ lâu phía Pháp đã chủ trương cung cấp cho Việt Nam những thiết bị đã qua sử dụng, nhưng còn tốt của các cơ quan nghiên cứu, đặc biệt là Viện Pasteur. Tuy nhiên để có thể chuyển các máy móc thiết bị này về Việt Nam cần có giấy phép của nhà nước Pháp (giấy phép của cơ quan phụ trách, giấy phép của Trung tâm CNRS,…) và phải có tiền chuyên chở. Đó thực sự là những trở ngại lớn cho việc đưa các máy móc từ Pháp về Việt Nam. GS Tôn Thất Tùng đã không nản chí và kiên trì làm việc với Bộ Ngoại giao Pháp và đã giải quyết được việc này trước khi ông về nước.
Một vấn đề khác hết sức quan trọng trong việc đào tạo cán bộ của khoa học của Việt Nam là vấn đề học bổng (bourser) của người Việt Nam tại Pháp. GS Tôn Thất Tùng cho biết vào thời điểm đó nước ta chỉ biết đến các học bổng của Bộ Ngoại giao Pháp cho, còn các học bổng khác chưa được chú ý và quan tâm khai thác. Đó là các học bổng: Do các Viện nghiên cứu, các khoa tài trợ (Bourses de Institut, Facultes); Bourses de Contracts (các hợp đồng trao đổi nghiên cứu với Trung tâm Nghiên cứu Quốc gia Pháp); Học bổng về Y học do nghiên cứu của Association Claude Bernard; Học bổng do các cá nhân tài trợ (Bourses Secteur privé); Học bổng khá cao do Trường Đại học Y Paris tài trợ (Collège de Medecine Paris). Để làm sao sử dụng tốt các học bổng và tranh thủ tối đa các học bổng đó cho người Việt Nam, GS Tôn Thất Tùng đã bàn với các bạn Pháp và một số Việt kiều là nên sử dụng các học bổng định kỳ tháng chứ không phải năm. Ông cho rằng một số người được cử sang Pháp không phải để lấy học vị, mà để bổ túc, giải quyết một vấn đề về chuyên môn, kỹ thuật… vì vậy thời gian chỉ cần từ 3 đến 6 tháng, và như vậy một học bổng có thể dùng cho từ 2 đến 4 người trong khoảng thời gian ấy. Mặt khác, theo ông: “Nên phát triển quan hệ cá nhân giữa những người làm khoa học và muốn cho mọi sự được kết quả tốt, nên có quan hệ tốt với sứ quán Pháp ở Hà Nội để dễ dàng trong công việc”. Trên thực tế trong những ngày ở Paris, dựa trên mối quan hệ cá nhân của mình với Trung tâm CNRS, GS Tôn Thất Tùng đã xin được 2 học bổng cho 2 Việt kiều vào thực tập ở Gif/Yvete để sau này về giúp đất nước trong kế hoạch sản xuất thuốc,… trong vòng hai tuần ông đã xin được 9 học bổng cho người Việt Nam ở các trường, Viện nghiên cứu[4].
Cũng trong những ngày ở Paris, GS Tôn Thất Tùng đã tìm đến thăm ông Nguyễn Đăng Tâm – một Việt kiều đã hợp tác với GS Tùng trong việc sản xuất chất LH1 để điều trị ung thư. Trao đổi với ông Tâm, GS Tôn Thất Tùng được biết Trung tâm Nghiên cứu khoa học Quốc gia Pháp (CNRS) cắt tiền chi phí sản xuất thuốc LH1, đồng thời rút lại phòng thí nghiệm do ông Tâm điều hành tại Trung tâm Gif,… GS Tôn Thất Tùng đã tìm cách tháo gỡ những khúc mắc này bằng cách báo cáo lên Bộ Ngoại giao Pháp và đồng thời gặp GS Cantacurène – Phó Giám đốc của Trung tâm CNRS. Kết quả là Trung tâm CNRS cấp khoản tiền 120.000 Phờrăng để đào tạo 2 nhà nghiên cứu Việt Nam, và hứa bổ sung kinh phí cho ông Nguyễn Đăng Tâm tiếp tục nghiên cứu sản xuất thuốc LH1. Sau đó ông Đặng Hanh Phức là người được GS Tùng cử sang học hỏi kinh nghiệm và phương pháp điều chế thuốc LH1 sử dụng trong điều trị ung thư tại cơ sở nghiên cứu của ông Nguyễn Đăng Tâm. Nói về sự kiện này, GS Tùng viết lại: “Tôi đã làm như vậy và có khi thảo luận gắt gao để bảo vệ uy tín khoa học của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Sau những cuộc tiếp xúc, trao đổi với các nhà khoa học Pháp và các Ban liên lạc và trí thức Việt Nam tại Pháp, GS Tôn Thất Tùng đưa ra nhận định về vai trò của trí thức Việt kiều trong nền khoa học Pháp: “Pháp là một nước tiên tiến về khoa học và ở Pháp ta có một thuận lợi rất lớn là có rất nhiều bạn, rất nhiều người có cảm tình với dân tộc ta và tất cả các vị trí then chốt về khoa học hay y học của Pháp đều có Việt kiều của ta. Tôi đã phát hiện rất nhiều người khoa học Việt Nam hay gốc Việt Nam mà ở ngoài Liên hiệp Việt kiều vì một vài lý do gì đấy, nhưng đều ra mặt gặp tôi và hứa sẽ giúp đỡ ta khi tôi vào thăm các cơ quan đó. Giữa khoa học của ta và Pháp có một khoảng trống khá rộng mà chúng ta có thể thu hẹp lại nhanh chóng, nếu chúng ta tích cực biết làm”[5].
Với tinh thần khoa học và trách nhiệm của một người làm quản lý khoa học, sau những ngày ở Paris, GS Tôn Thất Tùng đã đưa ra những đề nghị cụ thể trình Thủ tướng Phạm Văn Đồng nhằm tăng cường việc hợp tác khoa học cũng như tạo điều kiện cho những trí thức Việt Nam làm việc và nghiên cứu tại Pháp.
Ông cho rằng, phải tận dụng triệt để tất cả các học bổng mà Pháp đã cho Việt Nam. Trên thực tế, sau khi về nước, ông được Đại sứ quán Pháp tại Hà Nội cho biết còn tới 10 học bổng mà nước bạn cho nhưng ta chưa dùng hết. Đó là một sự lãng phí quá mức và phải có tổ chức chịu trách nhiệm về vấn đề này. Nhà nước nên cho các sinh viên đi học ngắn hạn và đi nhiều lần hơn là đi một lần quá lâu, mỗi lần đi học phải có yêu cầu cụ thể rõ rệt và phải tạo điều kiện cho sinh viên trong sinh hoạt dễ dàng… Đi vào vấn đề cụ thể, ông đề xuất: “Không nên rút bớt tiền của sinh viên: 1.200 Phờrăng là quá thấp rồi và sinh viên cần mua sách, sinh hoạt trong xã hội Pháp. Nếu cần, Nhà nước nên tăng phụ cấp cho các nhân viên sứ quán tại Paris”.
Giáo sư Tôn Thất Tùng cho rằng phải củng cố vị trí khoa học, văn hóa của Việt Nam ở Paris, nên có một hội đồng cố vấn khoa học, về các hợp tác mua máy móc, xây dựng các nhà máy, nên tham khảo ý kiến của các trường đại học, các viện nghiên cứu của Pháp. Về mặt trao đổi: nên theo hiến pháp, cho phép gửi thư từ giữa những người làm khoa học với nhau, nếu cần thiết phải xây dựng một danh sách các nhà khoa học của Việt Nam để tiện cho việc thư từ trao đổi.
Cuối cùng GS Tôn Thất Tùng đề nghị việc nên dùng tất cả các học bổng mà nước bạn Pháp cho Việt Nam; đề nghị hợp tác với trường Đại học Paris VII, các khoa, các Viện nghiên cứu của Pháp; mời các nhà khoa học của Pháp sang thăm Việt Nam và cố vấn cho Việt Nam; đặc biệt là thông qua Đại sứ quán Việt Nam can thiệp để mời kỹ sư Nguyễn Văn Phúc và ông Nguyễn Đăng Tâm về Việt Nam để giúp đỡ đất nước.
Với những việc đã làm và những đề xuất sau những hoạt động trí vận ở Paris, GS Tôn Thất Tùng đã thể hiện tầm nhìn của một người trí thức nhiều tâm huyết với việc đưa khoa học nước nhà vươn lên tầm quốc tế. Bằng uy tín và ảnh hưởng cá nhân của mình, ông đã góp phần mở ra con đường hợp tác khoa học giữa hai nước Việt-Pháp, trong việc gửi thế hệ trẻ sang Pháp để học tập nhằm phục vụ công cuộc xây dựng đất nước. Lý giải về những việc đã làm của mình tại Paris, GS Tôn Thất Tùng cho rằng nó xuất phát từ một “động lực” (motivation) sâu xa, và có thể điều ấy là: “Tôi nhớ mãi câu nói của Bác: “Cái gì có lợi cho nước thì làm, cái gì hại thì không…”. Tôi thiết tưởng một người trí thức nào biết suy nghĩ một cách yêu nước và độc lập thì cũng có thể thành công”[6].
Nguyễn Thanh Hóa
______________