Năm 1965, Mỹ tăng cường cuộc chiến tranh ở Việt Nam, mở rộng leo thang đánh phá miền Bắc. Khi đó, đại bộ phận trường Đại học Bách khoa sơ tán về vùng nông thôn để đảm bảo chương trình dậy và học. Gia đình của Nguyễn Văn Ngọ cũng đi sơ tán nhưng ông ở lại Hà Nội phục vụ một Đề tài của Quân đội (Bộ Tư lệnh Phòng không Không quân): “Nhiễu và chống nhiễu trong chiến tranh điện tử”. Nhớ về việc đó, ông cho biết: “ GS Tạ Quang Bửu đề xuất chống nhiễu từ rất sớm và thầy biết tôi ở Sở Nghiên cứu Rađa Trung Quốc về, có một số kiến thức về chiến tranh điện tử nên giao cho tôi tiếp tục theo dõi vấn đề để trang bị dần kiến thức lý thuyết cho bộ đội phòng không. Thế là tôi chấp hành”.
Ở tuổi 83 GS Nguyễn Văn Ngọ vẫn hăng say với công việc
Trong những ngày ở Hà Nội thực hiện Đề tài khoa học trên, có thời gian là ông quay lại tự học toán, môn học mà ông rất yêu thích từ khi còn học tiểu học và trung học. Từ những năm 1948-1949 ông đã được học Toán học đại cương do GS Nguyễn Thúc Hào dạy ở Nam Đàn, Nghệ An. Ông cho rằng ai đã có may mắn được học thầy Thúc Hào thì đều phải thừa nhận rằng tư duy toán học và lòng đam mê toán mà thầy truyền cho không bao giờ tắt trong suốt cả cuộc đời.
Sau khi học Toán học đại cương, năm 1950 Nguyễn Văn Ngọ vào làm ở Sở Vô tuyến điện Liên khu 4, được giao nhiệm vụ sang giúp Bộ Tư lệnh Liên quân Lào – Việt ở Thượng Lào thành lập Ban Thông tin liên lạc và Mạng thông tin quân dụng. Trước khi đi, ông được một hàng binh nguyên là đại úy, kỹ sư Vô tuyến điện có tên Việt Nam là Nguyễn Chí Hùng hướng dẫn cách bố trí một Mạng thông tin liên lạc quân sự, quy chế bảo vệ, bảo trì, bảo mật thiết bị, và một số phương pháp mã hóa bản tin điện báo. Nhận thấy Nguyễn Văn Ngọ có năng khiếu toán và ham học hỏi, ông Nguyễn Chí Hùng đã giảng cho ông nhiều Lý thuyết về Mã và căn dặn sau này khi có điều kiện, muốn đi sâu vào Lý thuyết Mã phải chuẩn bị tốt cơ sở về toán trừu tượng.
Với niềm say mê về toán và nhớ lại lời dặn dò của ông Nguyễn Chí Hùng, Nguyễn Văn Ngọ đã bắt đầu đi sâu tìm hiểu Lý thuyết Mã nhằm phục vụ trực tiếp cho công việc và nhiệm vụ của mình. Ông giải thích thêm lý do của việc học: “Lúc đó, tư liệu về Chiến tranh Điện tử không nhiều do đó phải đi tìm những lý thuyết cơ bản có liên quan, như Lý thuyết Phổ, Lý thuyết Mã”. Trước đó ông đã từng đọc và dịch cuốn “Phổ và Phân tích” của Viện sĩ Thông tấn Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô Kháckêvich dành cho sinh viên học.
Nguyễn Văn Ngọ cho biết, việc tự học về Lý thuyết Mã của mình thuận lợi là nhờ Thư viện Khoa học và Kỹ thuật Trung ương. Nhờ sự quan tâm của GS Tạ Quang Bửu nên thư viện luôn đặt mua được sách mới, kể cả những cuốn sách bằng tiếng Anh, Pháp, bởi thế ông thường tìm những quyển sách rất quý và mới để học. Mỗi khi có sách mới về các bà thủ thư đều cho ông mượn đem về nhà đọc, hoặc photocopy với giá rẻ những chương mà ông đề nghị. Ông cho biết thêm, Thư viện Khoa học và Kỹ thuật Trung ương có quan hệ hợp tác với các nước Pháp, Liên Xô để thỉnh thoảng triển lãm sách mới, và bao giờ ông cũng được mời đến xem và trao đổi với phía bạn. Hầu như hễ có quyển sách mới nào về Lý thuyết Mã của phương Tây xuất bản thì thường sau 2 năm đã có sách dịch của Liên Xô.
Cho đến gần cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX, Nguyễn Văn Ngọ đã có được khoảng 5 năm nghiên cứu tài liệu, đọc sách và xây dựng một số bài giảng chuyên đề về các khái niệm cơ sở cần có trước khi đi vào Lý thuyết Mã, ví dụ như: Lý thuyết Tập, Lý thuyết Nhóm, Đại số Hiện đại,.. cũng như xây dựng được đề cương một giáo trình về Lý thuyết Mã, mặc dù chưa sâu nhưng tương đối có hệ thống. Mục đích soạn những bài giảng chuyên đề của ông thực ra nhằm hệ thống hóa những kiến thức đã thu hoạch được sau 5 năm tự học và nghiên cứu, chưa có chủ ý để lên lớp. Ông cho biết cách học của mình là đọc sách, ghi lại các ý chính, rồi tự diễn giảng, sau đó tìm bài tập để làm, khi đã đủ trình độ hiểu vấn đề thì tìm các bài viết trong tạp chí để đọc. Cứ như vậy, mỗi tuần ông bỏ ra từ 4 đến 5 buổi để học và đọc sách, hôm nào ban ngày bận thì đêm thức để học bù. Những lần đọc sách ở thư viện, ông hay gặp GS Tạ Quang Bửu, nhiều khi những quyển sách GS Bửu cần mượn thì ông đã mượn về nhà mất rồi.
Có lần, vợ ông từ nơi sơ tán về, thấy ông đang ngồi viết và học về Lý thuyết Mã, bà hỏi: “Anh làm cái này để làm gì?” Ông im lặng một lát rồi nói: “Có lẽ chẳng để làm gì cả, toán cũng như thơ, những khi hứng lên thấy thích thì làm thôi”. Nói như vậy thôi, nhưng ông thật sự rất say sưa và biết nó gắn với công việc của mình rất nhiều.
Những kiến thức tự học và tự nghiên cứu về Lý thuyết Mã đã giúp GS Nguyễn Văn Ngọ trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy. Ông chính là người có công lớn góp phần vào việc thành lập Khoa Điện tử – Viễn thông ở Đại học Quốc gia Hà Nội (nay thuộc trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội). Ngoài ra ông đã dành nhiều thời gian để viết Giáo trình Thông tin Vệ tinh, trong đó có riêng một chương về Lý thuyết mã hóa và nén tín hiệu, phục vụ cho việc dạy và học. Đáng chú ý hơn là vào năm 1998, ông là nhà khoa học được mời tham gia phản biện cho Dự án vệ tinh Vinasat-1 tại Bộ Kế hoạch – Đầu tư. Ông còn nhớ, ông đã thay mặt nhóm chuyên gia đưa ra ý kiến về Dự án : “1 – Các cơ quan hữu quan Việt Nam có đủ năng lực làm chủ cả phần cứng và phần mềm bảo mật cho thông tin qua vệ tinh. Việc giao lưu và hợp tác với các đối tác chiến lược vẫn cần, nhưng chúng ta tiếp thu công nghệ và giải pháp có chọn lọc và đủ trình độ cải biên để sử dụng với độ tin cậy cao. 2- Nếu không đăng ký được băng tần X thì không nên dùng quả vệ tinh cho thông tin nội bộ của nhà nước và quân sự, vì bảo mật thông tin phải đi đôi với an toàn mạng, ở các băng tần dân dụng khó bảo đảm an toàn mạng hơn băng X”.
Với niềm đam mê như vậy, sau khi nghỉ hưu, GS Nguyễn Văn Ngọ tiếp tục tranh thủ thời gian dịch phần “Xử lý Ảnh” (253 trang) trong quyển Two Dimensional Signal and Image Processing của JAE S. LIM thuộc bộ sách giáo khoa của Đại học Công nghệ Massachusetts (MIT) và đưa lên diễn đàn DSP (Digital Signal Processing) Việt Nam, (www.dspvietnam.com) nhằm phổ biến cho bạn đọc quan tâm đến lĩnh vực này. Được học, được làm việc và được phục vụ đất nước là mong muốn, là niềm vui đối với GS Nguyễn Văn Ngọ, phần thưởng lớn nhất đối với ông là sự tin cậy và ghi nhận của đồng nghiệp, bạn bè và các thế hệ học trò.
Nguyễn Thanh Hóa
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam