Tiếng nói của chủ thể
Cuối năm 2019, Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt
Những tài liệu hiện vật của các nhà khoa học đang lưu trữ tại Trung tâm là nguồn dữ liệu, thông tin vô cùng quan trọng để phục vụ việc xây dựng nội dung trưng bày. Dù là một bức ảnh kỷ niệm trong chuyến thực địa, những tập bản thảo bài viết, báo cáo, nhật ký, lưu bút… đều góp phần thể hiện tiếng nói của chủ thể. Nghiên cứu những tài liệu này, chúng tôi càng hiểu hơn về quá trình họ làm khoa học, hiểu được vì sao họ thành công.
Với cách tiếp cận là kể chuyện bằng chính “tiếng nói” từ tài liệu hiện vật và ký ức của chủ thể, Trung tâm may mắn đã tiến hành nhiều buổi làm việc, gặp gỡ trực tiếp các tác giả để phỏng vấn, khai thác thông tin và sưu tầm tài liệu hiện vật để bổ sung nội dung trưng bày. Đó là GS.TS Trương Đình Dụ[1], GS Hoàng Tụy[2], GS Trần Bảng[3], KS Đỗ Đình
GS Trần Bảng trong một buổi làm việc
với Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam, 12-2018
Trong chuyến công tác ở thành phố Hồ Chí Minh vào năm 2014, Trung tâm có buổi làm việc đầu tiên với ông Thái Kiên Chí – con trai thứ hai của GS Thái Văn Trừng, mở đầu cho quá trình sưu tầm, khai thác thông tin sau này. Không còn cơ hội trực tiếp làm việc với tác giả nhưng cuốn nhật ký ông viết trong thời gian thực tập ở Viện Lâm học Bắc Kinh, Trung Quốc (1957) đã giúp chúng tôi hiểu được ông ấp ủ ước mơ về phân loại thực vật ở Việt Nam đã từ lâu. Trong cuốn nhật ký có đoạn: Tôi mơ ước xây dựng một bộ sách phân loại thực vật học của Việt
Ông Thái Kiên Chí cẩn thận chú thích mặt sau mỗi bức ảnh của bố trước khi tặng Trung tâm, ngày 17-5-2014
Tiếp tục nghiên cứu khối tài liệu hiện vật của GS Thái Văn Trừng tại Trung tâm, chúng tôi vô cùng vui mừng khi thấy một bức ảnh in Bản đồ các vùng ở miền Nam bị Mỹ rải chất độc hóa học và các mô hình phục hồi hệ sinh thái rừng nhiệt đới theo quan điểm của ông. Mô hình trồng cây keo lá tràm để cải tạo đất, rồi trồng xen các cây gỗ quý và cây bụi, tre nứa… làm phong phú hệ sinh thái rừng, đã góp phần phục hồi hàng ngàn ha rừng “chết” do chất độc màu da cam ở Củ Chi (TP Hồ Chí Minh), Đồng Xoài (Bình Phước) và một phần của rừng ở Vườn quốc gia Nam Cát Tiên (Đồng Nai)… Thông qua việc nghiên cứu, khai thác tài liệu hiện vật như thế, chúng tôi đã chọn lựa được nhiều câu chuyện, tài liệu hay, giá trị cho trưng bày.
Bản đồ các vùng ở miền
do GS Thái Văn Trừng xây dựng, 1960-1971
Không dừng lại ở đó, sau khi chia sẻ những câu chuyện và trao tặng tài liệu hiện vật, các nhà khoa học và gia đình, đồng nghiệp, học trò của họ còn tiếp tục đồng hành cùng chúng tôi trong quá trình hoàn thiện Trưng bày. Họ vui vẻ nhận lời góp ý cho từng câu trích, từng dòng chú thích ảnh, vị trí đặt tài liệu… với hy vọng mang tới cho khách thăm trưng bày những thông tin khoa học chính xác mà dễ hiểu nhất.
Những mảng màu trong một bức tranh khoa học
Tại trưng bày “Giải thưởng Hồ Chí Minh của các nhà khoa học Việt
Ngay khi về nước, năm 1949, GS Đặng Văn Ngữ[12] cùng hai cộng sự bắt tay ngay vào công việc nghiên cứu, điều chế kháng sinh Penicillin. Tháng 5-1950, gần sáu vạn đơn vị Penicillin kết tinh (bột) ra đời. Đây được coi thành tựu có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhất là trong thời kỳ kháng chiến gian khổ. Qua nghiên cứu, GS Ngữ và các cộng sự thấy rằng nếu dùng để chữa trị tại chỗ các vết thương phẫu thuật nhiễm trùng thì nước lọc Penicillin có tác dụng và hiệu lực hơn cả Penicillin kết tinh. Vì vậy, ông tập trung tìm ra giải pháp điều chế nước lọc Penicillin từ nguyên liệu dễ tìm. Ngay khi ông nảy ra ý tưởng dùng nước thân cây ngô làm môi trường nuôi cấy Penicillin để sản xuất nước lọc Penicillin thay thế bột tinh thì ông cùng các cộng sự đã bắt tay vào thực hiện ngay và thành công. Từ đó, các lớp học hướng dẫn sản xuất nước lọc Penicillin được mở ra. Nước lọc Penicillin được đưa ra phục vụ trực tiếp, kịp thời cho thương bệnh binh, nhân dân một cách rộng rãi, hiệu quả.
Cụm công trình “Ngăn sông đập trụ đỡ và đập sà lan” của GS Trương Đình Dụ cùng bảy cộng sự ở Viện Khoa học thủy lợi[13] là sự sáng tạo, mở ra một hướng mới trong lĩnh vực xây dựng đập ở Việt Nam, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội to lớn. Đập Thảo Long (Huế) ứng dụng công nghệ đập trụ đỡ đi vào hoạt động năm 2006, được đánh giá là công trình ngăn mặn lớn nhất Đông Nam Á.
GS.TS Trương Đình Dụ (đứng) giới thiệu mô hình đập Thảo Long, 1999
Đó là một trong những công trình mang tính ứng dụng thực tiễn cao. Còn trong nghiên cứu lý thuyết, công trình của các tác giả: GS Đào Văn Tiến[14] (Sinh học), GS.VS Nguyễn Đình Tứ[15] (Vật lý), GS.VS Nguyễn Văn Đạo, GS Hoàng Tụy (Toán học) cũng có những sáng tạo, cống hiến riêng biệt. Với “Tập hợp các công trình điều tra cơ bản động vật học ở Việt
Ở một lĩnh vực hoàn toàn khác biệt là nghệ thuật sân khấu, cuốn sách “Trần Bảng – Đạo diễn Chèo” là một công trình khoa học mang đặc thù riêng. Trong cuốn sách, GS Trần Bảng đã hệ thống một cách khá hoàn chỉnh lý luận về nghệ thuật chèo, các mô hình nhân vật, các nguyên tắc tự sự, ước lệ, điều độ sân khấu chèo, các lối diễn… Bởi vậy, cuốn sách trở thành cẩm nang cho nhiều thế hệ nghệ sĩ chèo.
Nhìn lại để bước tiếp
Mười bốn công trình khoa học được giới thiệu trong trưng bày Giải thưởng Hồ Chí Minh của các nhà khoa học Việt
Sau gần một năm cả Trung tâm Di sản tập trung cho các công việc chuẩn bị nội dung và thiết kế để khai trương Trưng bày, đối với chúng tôi, đó là thời gian vô cùng ý nghĩa. Càng tìm hiểu chúng tôi càng khâm phục, trân trọng và tự hào về các nhà khoa học Việt
Lê Lợi
[1] GS.TS Trương Đình Dụ nguyên Phó viện trưởng Viện Khoa học Thủy lợi Việt
[2] GS Hoàng Tụy nguyên Viện trưởng Viện Toán học.
[3] GS Trần Bảng nguyên Giám đốc Nhà hát Chèo Trung ương, Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật sân khấu.
[4] KS Đỗ Đình Thuận nguyên Vụ phó Vụ kế hoạch, Bộ Nông nghiệp.
[5] KS Nguyễn Xuân Bao nguyên Liên đoàn trưởng Liên đoàn địa chất 6.
[6] KS Trần Phú Thành từng công tác tại phòng Kỹ thuật, Liên đoàn Bản đồ địa chất miền Bắc.
[7] GS.TSKH Thái Văn Trừng nguyên Phó Viện trưởng Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt
[8] GS.TSKH Đỗ Tất Lợi nguyên Viện trưởng Viện Khảo cứu và Chế tạo dược phẩm, Cục Quân y.
[9] GS.VS Nguyễn Văn Đạo nguyên Giám đốc Đại học Quốc gia Hà Nội.
[10] GS.TSKH Thái Văn Trừng, Nhật ký học tập ở Trung Quốc từ 14-9-1957 đến 1-5-1958 (viết tay), lưu trữ tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam.
[11] GS.TS Trương Đình Dụ, Bài phát biểu tại buổi lễ khai trường Trưng bày “Giải thưởng Hồ Chí Minh về các nhà khoa học Việt
[12] GS Đặng Văn Ngữ nguyên Viện trưởng Viện Sốt rét – Ký sinh trùng và côn trùng Việt
[13] Tên gọi của Viện Khoa học thủy lợi Việt
[14] GS Đào Văn Tiến nguyên Chủ nhiệm khoa Sinh học, trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
[15] GS.VS Nguyễn Đình Tứ nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân.