Chặng đường nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan

Tôi xuất thân từ một gia đình gia giáo ở xã Khương Đình (nay là phường Hạ Đình), quận Thanh Xuân, Hà Nội. Cha làm nghề dạy học, mẹ buôn bán nhỏ. Từ nhỏ, tôi đã có năng khiếu về toán nên sau đấy ước mơ trở thành sinh viên khoa Toán trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Nhưng đến ngày thi đại học thì tôi bị ốm, đành phải bỏ thi. Để có thu nhập phụ thêm cho gia đình, tôi đã nhận đan len thuê và dạy môn toán cấp 2 ở trường Đoàn (do Đoàn Thanh niên mở). Tôi còn tham gia các hoạt động xã hội như đi dạy học để xóa mạn mù chữ, điều tra dân số…

Đến năm 1960, có người nói ở Viện Văn học đang cần người làm tư liệu cho cuốn Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945. Tôi lên Viện Văn học và gặp ông Phan Nhân. Ông hỏi tôi biết gì về văn học. Tôi bèn đọc thuộc lòng một đoạn văn của Vũ Trọng Phụng. Thế là tôi được nhận và trở thành nhân viên làm tư liệu của Viện.

 

PGS.TS Lê Thị Đức Hạnh 

Năm 1961, theo gợi ý của ông Nguyễn Đức Đàn (Cán bộ trong tổ Văn học hiện đại), tôi đã tập viết bài nghiên cứu về tiểu thuyết “Hỗn canh hỗn cư” của Nguyễn Công Hoan. Tôi quyết tâm cao lắm, ba ngày tết đóng cửa ngồi viết. Sau đó phải có sự sửa chữa của ông Thành Duy1 bài viết mới đăng báo Văn nghệ được, chúng tôi là đồng tác giả. Sau đó, tôi đọc nhiều bài nghiên cứu học tập cách viết và viết một bài về nhà văn Thép Mới là “Bút ký của Thép Mới”. Khi ấy công việc chính của tôi vẫn là làm tư liệu cho cuốn “Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945” của tổ Văn học hiện đại, nhưng bước đầu đã làm quen với việc nghiên cứu. Do thường xuyên đi thư viện nên tôi tìm được những tác phẩm của Nguyễn Công Hoan mà trên các sách báo chưa nói đến, như cuốn “Ông chủ”, “Bà chủ” (hai truyện vừa in vào một cuốn). Tôi thấy hay, thế là về báo cáo với ông Hoài Thanh  (khi ấy là Phó Viện trưởng Viện Văn học, đồng thời phụ trách Tạp chí Nghiên cứu văn học) và bảo tôi muốn viết về “Ông chủ”. Rồi tôi lại đến gặp ông Nguyễn Công Hoan, kể lại nội dung truyện cho ông nghe, ông cười và nói “tôi giống như người đẻ nhiều rồi quên cả mặt con”. Thế rồi tôi tiếp tục đọc, nghiền ngẫm, suy nghĩ để viết bài “Ông chủ, một tác phẩm hay về vấn đề nông dân trước cách mạng”. Đó là bài đầu tiên tôi viết về Nguyễn Công Hoan đăng trên Tạp chí nghiên cứu Văn học năm 1969. Bài viết rất công phu nên được mọi người chú ý và nhà văn Nguyễn Công Hoan thích thú. Nhờ vậy, tôi tạo được ấn tượng tốt, bởi nhà văn rất quý những người làm việc nghiêm chỉnh. Đó cũng là khi tôi chính thức đi vào nghiên cứu Nguyễn Công Hoan.

Sau đó, tôi viết bài “Ảnh hưởng của Đảng đối với sáng tác của Nguyễn Công Hoan thời kì Mặt trận Dân chủ”. Tôi tiếp tục viết một số bài tạp chí. Sau nhiều lần gặp gỡ, trò truyện để hỏi về quá trình viết từng truyện ngắn, truyện dài, tìm hiểu tư tưởng, tình cảm nhà văn,… Những bài viết của tôi đăng tạp chí được đánh giá tốt, vì thế tôi quyết định chọn đề tài luận án phó tiến sĩ về truyện ngắn Nguyễn Công Hoan. Quá trình ấy, tôi viết dần các bài. Đương nhiên, tôi phải đọc rộng ra các tác giả khác, đọc lý luận về truyện ngắn, về nghệ thuật trào phúng, về tiểu thuyết… thế nên dần dần cái phông hiểu biết của tôi cũng mở rộng ra. Coi như đó là quá trình vừa làm vừa học. Do vậy, tôi vẫn có thể viết bài về các nhà văn khác, như viết về nhân vật phụ nữ trong tác phẩm của Phan Tứ, rồi “Phụ nữ ba đảm đang”, Vũ Trọng Phụng… nhưng tập trung nhất vẫn là Nguyễn Công Hoan. Cũng thời gian ấy, tôi phải đi học thêm lớp đại học buổi tối ở câu lạc bộ Đoàn Kết, gần Nhà hát lớn, do Đảng xã hội mở để có được tấm bằng đại học văn sử hệ ba năm.

Về lý do tôi chọn nghiên cứu Nguyễn Công Hoan, có thể tóm lược như sau: Nguyễn Công Hoan là một nhà văn hiện thực tài năng, nổi tiếng cả trong và ngoài nước. Có thể coi ông là người mở đường cho chủ nghĩa hiện thực, có khối lượng sáng tác phong phú, với hơn 200 truyện ngắn, gần 30 truyện dài, một số bài ký và nhiều bài tiểu luận. Tên tuổi ông gắn liền với truyện ngắn trào phúng, truyện dài Bước đường cùng, các tác phẩm Ông chủ, Cái thủ lợn, Lá ngọc cành vàng,… và cuốn hồi ký Đời viết văn của tôi. Đương nhiên, không phải không có những mặt hạn chế, bị phê phán, nhưng tóm lại, Nguyễn Công Hoan vẫn được giới phê bình đánh giá cao và rất được độc giả hâm mộ. Nhiều độc giả gửi thư hoặc đến gặp ông để chia sẻ tâm sự; họ xếp hàng mua báo có in truyện ngắn của ông; có lần, tưởng ông mất, họ làm lễ truy điệu… Và ngày càng có sự đánh giá thỏa đáng về ông, đặc biệt là các truyện ngắn trào phúng viết trước cách mạng, được coi là một kho tàng quý báu. Không chỉ trong nước mà cả ở nước ngoài, Nguyễn Công Hoan cũng được các nhà nghiên cứu đánh giá cao, thậm chí rất cao với một số truyện ngắn trào phúng. Nhiều nước dịch truyện của ông. Ông được Nhà nước trao tặng Huân chương Lao động hạng Nhất, được Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật (1996). Tuy vậy, trước kia tôi thấy chỉ có một ít chương sách, giáo trình, bài báo, chưa được nghiên cứu sâu, kỹ, nhiều mặt và nhất là chưa có công trình nghiên cứu về truyện ngắn cũng như toàn bộ sự nghiệp sáng tác của nhà văn. Do đó, tôi đã đi sâu nghiên cứu về nhà văn nhằm lấp đầy những khoảng trống đấy.

Tôi thường đến nhà ông Nguyễn Công Hoan để trao đổi mỗi khi viết bài, như thế mới thấu tình đạt lý. Ông cũng rất hay đến nhà tôi. Ông nói chuyện thân tình với cả chồng tôi, và ông rất yêu các cháu bé, con tôi. Có lần, ông bế con trai thứ hai của tôi trên lòng. Tôi khoe: “Cháu đã biết đọc rồi đấy ạ!”. Ông hỏi cháu: “Cháu có đọc được truyện của ông không?”. Cháu nói: “Thưa ông, cháu có đọc được một đoạn ạ!”. Ông hỏi: “Cháu có nhớ được gì? Nói ông nghe”. Cháu nói: “Cháu nhớ là ông viết: “khoai ăn cả vỏ càng đỡ tốn” ạ! Thì ra, đó là câu trong truyện ngắn “Bữa no đòn”.

Khi tái bản tập 2 “Truyện ngắn chọn lọc” của ông, tôi rủ ông đi thư viện để chép (hồi đó chưa nhờ thư viện photocopy được, ông đọc, tôi chép). Ông lưỡng lự vì không có thẻ đọc nên đến cổng thư viện thì dừng lại. Tôi vội đi lên trước và nói với người gác cổng: “Đây là nhà văn lớn Nguyễn Công Hoan”. Ông gác cổng cúi đầu chào và nói “Xin mời bác vào”. Ông Nguyễn Công Hoan quay sang phía tôi, cười hóm hỉnh: “Hóa ra nhà văn thiếu vốn sống thật”.

Một lần khác, có nhà nghiên cứu người Tiệp Khắc đến gặp ông để nghiên cứu thì ông bảo “đến tìm cô Hạnh, chứ tôi không tự nghiên cứu về tôi”. Khi bị ốm, ông nhờ người báo tin ngay cho tôi. Tôi đến thăm, ông kể về bệnh tật, rồi chuyện văn, chuyện đời… Khi ông qua đời, cô Ngọc Tú2 đến báo, tôi và cô ấy đều khóc! Thương nhớ ông lắm! Bao nhiêu lần ông đến nhà, tình cảm ông dành cho tôi rất đáng trân quý. Mấy lần ra sách ông đều tặng tôi đầu tiên, cuốn “Đời viết văn của tôi” ông mang đến tận nhà tôi tặng. Còn nhớ, năm 1971, khi mới sinh con trai út, tôi đến dự lễ mừng thọ ông ở Hội nhà văn. Lúc vào phòng, ông lặng lẽ đi xuống bắt tay tôi và nói: “thôi, bây giờ tạm thời nghỉ nghiên cứu trông con cho cẩn thận nhé”. Ông mất rồi, mỗi lần tôi đến nhà, vợ ông đều pha nước đặt lên bàn thờ, thắp hương và khấn “ông về đi, cô Hạnh đến đấy”! Bà mắt kém, còn bắt cháu đưa đến nhà tôi chơi. Tôi cảm động lắm!

Tôi có nhiều thuận lợi trong quá trình nghiên cứu, đó là được nhà văn nhiệt tình tâm sự khi có thể, ông còn mượn tài liệu giúp. Tôi được một số người quen cho mượn những bài báo cũ để đọc; lại được cán bộ thư viện Trung ương rất ưu tiên cho đọc và mượn sách bị hạn chế. Phải nói thật là gần như không ai có nhiều tài liệu bằng tôi. Và đặc biệt khi làm luận án tôi được GS Vũ Đức Phúc hướng dẫn rất tận tình.

Nhưng tôi cũng gặp không ít khó khăn. Thứ nhất là chính nhà văn không giữ được các tác phẩm của mình nên tôi phải đi thư viện đọc và tìm gặp bạn bè, người thân của ông để mượn tài liệu và tìm hiểu thêm về nhà văn. Tôi phải đi lại nhiều lần, nhiều nơi. Đặc biệt là nhiều truyện hay phải vào thư viện chép vì ngày ấy không có máy photocopy. Rồi đi tìm mua sách ở các hiệu sách cũ. Nhờ vậy tôi đã tập hợp được số lượng lớn các tác phẩm (trong đó nhiều tác phẩm ông đã quên)… Không chỉ vậy, tôi còn phải hỏi ông về bối cảnh chính trị, xã hội, tình hình văn học thời trước mà những người thời sau khó nắm được.

Với tôi, trong nghiên cứu khi đưa ra một nhận định nào cần dựa trên cơ sở tư liệu phong phú, chính xác rồi đào sâu suy nghĩ đến tận bờ, sát góc thì luận điểm của mình mới có sức thuyết phục, có giá trị khoa học thật sự. Đến khi việc sưu tầm tài liệu khá đầy đủ, tôi đi sâu vào từ nội dung, tư tưởng, phong cách, ngôn ngữ, nghệ thuật, nhất là nghệ thuật trào phúng đặc sắc. Tôi nghiên cứu toàn bộ sự nghiệp của nhà văn (200 truyện ngắn, gần 30 truyện dài, nhiều bài tiểu luận, ký) và đặc biệt cuốn Đời viết văn của tôi, và chia ra từng thời kỳ sáng tác (5 thời kỳ). Cách phân kỳ này chưa ai làm. Mỗi thời kỳ tôi lại đi sâu, nghiên cứu kỹ về những chuyển biến tư tưởng thể hiện trong sáng tác (cả truyện ngắn và truyện dài), những ưu điểm nổi bật và phần nào những hạn chế, chú ý những truyện tiêu biểu. Đồng thời, từ quá trình tiếp xúc, tôi đã tìm hiểu con người, cuộc đời của nhà văn, hiểu được tư tưởng, tình cảm, cảm xúc, suy tư của nhà văn trong từng thời kỳ, bởi “văn là người”. Tôi so sánh đối chiếu với các nhà văn đương thời, trên cơ sở khoa học, có sức thuyết phục để khẳng định: Nguyễn Công Hoan thực sự là một tài năng lớn, độc đáo, khẳng định vai trò vị thế của nhà văn trong văn học hiện thực Việt Nam.

Bằng tư liệu cụ thể, chính xác, nghiên cứu sâu, kỹ, tôi đã có kết luận vững chắc là Nguyễn Công Hoan xuất hiện sớm trên văn đàn, viết nhiều, viết khỏe, viết đặc sắc, độc đáo… Nhà văn đã góp phần đặt nền móng cho chủ nghĩa hiện thực phê phán trong Văn học Việt Nam. Ông chính là người khai mở và phát triển một thể loại truyện ngắn hiện đại, đặc biệt là truyện ngắn trào phúng, đến nay chưa ai theo kịp. Ông cũng viết nhiều truyện dài, truyện vừa đặc sắc: Bước đường cùng, Cái thủ lợn, Ông chủ, Bà chủ,… Kết quả nghiên cứu của tôi góp phần làm sáng tỏ một tài năng và một nhân cách đẹp. Nguyễn Công Hoan xứng đáng có một vị trí trang trọng trong văn học sử nước nhà và có uy tín đáng kể trên thế giới.

Năm 1976, tôi đã hoàn thành luận án phó tiến sĩ với đề tài “Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan”. Nhưng do tôi chỉ có bằng đại học hệ 3 năm, không hợp lệ để bảo vệ luận án. Tôi phải nhờ đến sự giúp đỡ của bà Phan Thị An, phụ trách phụ nữ trí thức thủ đô và được Bộ trưởng Bộ đại học Nguyễn Đình Tứ tác động để tôi được bảo vệ đặc cách hệ đại học 4 năm. Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội lập một hội đồng nhỏ, kiểm tra kiến thức lý luận văn học và văn học sử của tôi. Trong thời gian ấy, PGS Vũ Đức Phúc gợi ý tôi chuyển luận án thành sách để xuất bản. Vì vậy, năm 1979, tôi đã xuất bản cuốn “Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan”.

Do từ nhỏ, tôi đã có vấn đề về tim mạch, từng phải gác lại ước mơ học hành do sức khỏe yếu. Thời điểm bấy giờ, cùng phải lo cho luận án, cho bản thảo sách rồi việc ôn chương trình đại học khiến sức khỏe của tôi suy kiệt. Gia đình lo lắng, chăm sóc cho tôi nhưng kinh tế thời đó khó khăn, không có điều kiện bồi bổ. Lần nào tôi đi khám, bác sĩ cũng ghi “suy nhược thần kinh, suy nhược cơ thể”. Khi có quyết định bảo vệ luận án, tôi không đi nổi phải nhờ cô Trần Thị Băng Thanh3 đến nhận quyết định giúp. Đến năm 1982 thì tôi đã hoàn thành việc bảo vệ luận án.

Sau bảo vệ luận án, tôi đã cơ bản hoàn thiện việc nghiên cứu toàn bộ sự nghiệp nhà văn Nguyễn Công Hoan. Ngoài các bài nghiên cứu đăng trên báo, tạp chí, các sách chung, tôi in thêm cuốn nghiên cứu: “Nguyễn Công Hoan, 1903-1977” (1991), hai cuốn sưu tầm tuyển chọn “Nguyễn Công Hoan: Về tác giả và tác phẩm” (2000), “Nguyễn Công Hoan, những tác phẩm tiêu biểu trước năm 1945” (2000). Những công bố ấy của tôi đã được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước (Tiệp Khắc, Nga, Đức, Nhật), nghiên cứu sinh, sinh viên đại học… tham khảo và trích dẫn. Tôi cũng đã đi nói chuyện, giảng về Nguyễn Công Hoan ở các lớp học cho nghiên cứu sinh, cho Trường Viết văn Nguyễn Du…; báo cáo cho các chuyên gia Nga, Tiệp Khắc, Nhật nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan. Với tư liệu phong phú, trong sách của tôi còn có một bản danh mục có xuất xứ cụ thể, tỉ mỉ về sáng tác của Nguyễn Công Hoan trong suốt cuộc đời ông, cùng một niên biểu để thấy rõ: lịch sử cuộc đời của nhà văn, từ nhỏ cho đến khi qua đời.

Nhìn lại những gì đã làm được trong nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan, tôi thấy mình đã thực sự say mê, tâm huyết, và nỗ lực thật đáng kể… Tôi có phần tự hào về kết quả đó. Đôi lúc thấy “thật không ngờ mình đã làm được như vậy”. Chẳng những thế, tôi còn rất vui khi trong “Đời viết văn của tôi” nhà văn Nguyễn Công Hoan đã dành gần một trang viết về tôi, trong đó có câu: “Tôi rất cảm ơn chị bạn trẻ”.

 

Lê Thị Hằng (ghi)

Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam


* Nguyễn Công Hoan (1903-1977) là một nhà văn hiện thực lớn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam (từng giữ chức Chủ tịch Hội,  thành viên Ban chấp hành).

** PGS.TS Lê Thị Đức Hạnh sinh ngày 22-2-1934 tại Hà Nội, chuyên ngành Văn học Việt Nam hiện đại, nguyên Nghiên cứu viên chính Viện Văn học, Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam).

[1] Tức Nguyễn Văn Truy, sau này làm Vụ trưởng Vụ Tổ chức của Viện Khoa học xã hội Việt Nam. Đây là nhà khoa học Trung tâm Di sản các nhà khoa học đang nghiên cứu.

[2] Nguyễn Thị Ngọc Tú (1942-2013) là một nữ nhà văn Việt Nam, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Tổng biên tập tạp chí Tác phẩm mới – Hội Nhà văn.

 [3] PGS.TS Trần Thị Băng Thanh, chuyên ngành Văn học, từng là Phó trưởng phòng Văn học cổ – cận đại, Viện Văn học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam.