Nhớ về Giáo sư, Viện sĩ Đào Thế Tuấn

Thời “ấu thơ khoa học” bên anh Đào thế Tuấn

Tôi 19 tuổi, vừa tốt nghiệp trường Trung cấp Nông lâm Trung ương. Anh Đào Thế Tuấn, 29 tuổi, mới nhận bằng Phó tiến sĩ (PTS) tại trường Đại học Nông nghiệp Tasken, Liên Xô. Lúc này, sinh viên khóa I của Học viện Nông lâm vừa khai giảng năm học thứ 4.

Vào một chiều cuối thu năm 1959, bước vào căn phòng tranh tre nứa lá của Học viện Nông lâm ở xã Quang Trung I, huyện Gia Lâm, Bắc Ninh[1], trước mặt tôi là một người tầm thước, trán cao, da dẻ hồng hào, ngồi ngả lưng trên chiếc ghế gỗ đơn sơ. Đó là PTS Đào thế Tuấn, Phó trưởng bộ môn Sinh lý thực vật, mà tôi là người đầu tiên được cử làm trợ lý khoa học của anh. Câu đầu tiên anh hỏi: Cậu có năng khiếu gì không? Tôi trả lời: Thưa không ạ, chỉ chuyên về khoa học tự nhiên thôi! Anh mỉm cười và bảo: Ở đây cũng chỉ cần có thế. Nghe xong, tôi chợt cảm thấy gần gũi và vui vui.

Sáng hôm sau, anh dẫn tôi ra ruộng. Anh mặc bộ quần áo vải mềm màu xám trông như bác sĩ phẫu thuật nhưng không có mũ, còn ống quần thì túm bằng chun. Có lẽ đó là “mốt” của các nhà Nông học Liên Xô. Anh lội xuống ruộng, giải thích tận tình cho tôi các công thức thí nghiệm của từng ô và chỉ dẫn các nội dung theo dõi tiếp theo. Từ đấy, anh Tuấn không phải lo việc đồng áng nữa.

Trong phòng thí nghiệm bộ môn, anh hướng dẫn và giao cho tôi dùng kính hiển vi và micromet đo độ dầy của thành tế bào thân cây lúa trong thí nghiệm chống lốp đổ. Tôi mải miết làm hết công thức này đến công thức khác và cảm thấy rất hứng thú với công việc mà trước đây chỉ biết trên lý thuyết mà đến đây mới được thực hành khoa học.

Lúc bấy giờ phòng thí nghiệm còn có nhân viên lưu dung thời Pháp tạm chiếm cùng làm việc. Các dụng cụ thí nghiệm đều gọi bằng tiếng Pháp như pipet (ống hút), cuvet (ống đong), becher (cốc có mỏ), erlenmeyer (bình tam giác)… Tôi thấy ngợp quá nên phải học hỏi thật nhanh để làm tốt công việc được giao. Lúc đầu anh Tuấn phải hướng dẫn cho tôi rất tỉ mỉ, từ cách đúc mẫu trong parafin cho đến cắt mẫu sao cho mỏng và đều, cách pha thuốc nhuộm mẫu…Về sau anh chỉ nói qua là tôi làm được. Phòng thí nghiệm vừa để nghiên cứu vừa phục vụ sinh viên thực tập nên rất bận rộn và chật chội, phải làm đêm hay ngày nghỉ cũng là thường, mà tôi rất say mê. Chẳng bao lâu, anh đã tin tưởng giao cho tôi quản lý phòng thí nghiệm, cùng với phòng Phân tích nông hóa thổ nhưỡng là 2 phòng thí nghiệm hiện đại nhất bấy giờ của Học viện. 

Ở đây, tôi đã nhận thức được điều quan trọng: Nghiên cứu khoa học là khám phá và sáng tạo, bản thân nó có sức động viên rất lớn những người trong cuộc.

Tính chính xác trong nghiên cứu khoa học

Để xác định chiều cao cây lúa ở các công thức thí nghiệm khác nhau, anh Tuấn yêu cầu tôi đo từng dảnh[2] rồi lấy trung bình cộng. Để có trọng lượng hạt thóc mỗi công thức phải đếm ba lần một nghìn hạt rồi cân lên lấy trung bình cộng. Các phân tích hóa học như định lượng N-P-K và phân tich hóa sinh đều phải nhắc lại ba lần rồi lấy trung bình cộng. Không thỏa mãn với những con số trung bình cộng như thế, anh còn hướng dẫn và giao cho tôi tính sai số để biết độ tin cậy của các số liệu khoa học. Đống số liệu hàng ngàn hàng vạn nhưng công cụ tính toán lúc đó chỉ có “bàn tính thuốc bắc”, thước logarit, hiện đại nhất là cái máy tính quay tay của Tiệp Khắc viện trợ. Cho nên, phải “làm ngày làm đêm” mới kịp tiến độ công việc, làm cho tôi dần say mê với những con số.

Để đánh giá mối tương quan giữa hai hiện tượng sinh học nào đó như tương quan giữa diện tích lá và hiệu suất quang hợp, anh hướng dẫn tôi thu thập thật nhiều số liệu rồi tính hệ số tương quan theo phương trình toán học khá phức tạp để tìm ra mức độ phụ thuộc lẫn nhau. Tính hệ số tương quan mà không có công cụ hỗ trợ thì cực kỳ tốn công mà vẫn dễ sai sót. Có lẽ anh Tuấn là người đầu tiên ở Việt Nam đưa phép tính sai số và tính hệ số tương quan vào nghiên cứu khoa học nông nghiệp.

 

 GS.VS Đào Thế Tuấn (thứ 3, từ trái) cùng KS Phạm Bình Nhưỡng (thứ 2, từ trái) và cán bộ bộ môn Sinh lý thực vật, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam, nhân dịp nhận Huân chương Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2002

Để trình bày một bảng số liệu anh cân nhắc rất kỹ, có khi thay đổi hàng chục lần mới ưng ý để đạt yêu cầu dễ hiểu và thuyết phục nhất. Có lần, khi nhận số liệu khảo nghiệm tính chịu rét của cây, anh hỏi tôi: Cậu làm lúc nào? Tôi bảo: Em làm sáng nay ở phòng thí nghiệm. Tần ngần một lúc, anh bảo: Lẽ ra cậu phải làm vào lúc rét nhất và tốt hơn là làm ngay ngoài ruộng (rét nhất là khoảng ba giờ sáng). Lần khác anh bảo tôi cho mầm lúa vào các dung dịch dinh dưỡng khác nhau để xem khả năng hút chất khoáng. Tôi chọn những mầm đạt yêu cầu cho vào một đĩa đã pha chất dinh dưỡng. Anh thấy thế hốt hoảng bảo hỏng rồi, phải làm lại vì những mầm đó đều đã hút chất dinh dưỡng, kết quả thí nghiệm sẽ sai lac. Tôi tưởng một khắc ban đầu chưa ảnh hưởng gì, nhưng không phải vậy.

Khi giao cho tôi sang Bát Tràng (Gia Lâm, Hà Nội) đặt hai trăm chậu sứ trồng cây thí nghiệm, anh Tuấn vẽ chi tiết rất rõ ràng, men mặt ngoài màu trắng, men mặt trong mặt đen, đáy chậu có nhiều lỗ, lại có đế rời. Anh còn căn dặn tôi khi nhận hàng phải kiểm tra kỹ, chỉ nhận những cái hợp chuẩn. Tôi thầm nghĩ: Là cái chậu trồng cây, làm gì phải cầu kỳ thế!. Cũng do lúc ấy, tôi chưa biết đấy là mẫu tiêu chuẩn quốc tế dùng làm thí nghiệm trong chậu theo phương pháp Micheclich (mang tên nhà khoa học nghiên cứu ra mẫu chậu này). Ngày nay chắc còn vương vãi đâu đó ở Viện Khoa học nông nghiệp ở Văn Điển và Học viện nông nghiệp ở Gia Lâm.

Từ những việc như vậy, tôi quen với tư duy chính xác trong nghiên cứu khoa học, không thể vội vàng nhận xét, kết luận điều gì mà thiếu căn cứ.

Tự làm giàu kiến thức trong nghiên cứu khoa học

Từ khi PTS Đào Thế Tuấn về nước (cuối năm 1958), tôi không thấy anh đi học thêm lớp nào nữa, nhưng kiến thức ở anh ngày càng sâu rộng. Riêng ngoại ngữ, anh thông thạo hoặc đọc được tài liệu bằng nhiều thứ tiếng. Anh rất coi trọng các tư liệu khoa học. Sách báo khoa học trong tay anh khá phong phú. Khi mà nước ta chưa biết photocoppy là gì thì tôi lại thường thấy các nhà khoa học nước ngoài gửi các tài liệu nghiên cứu sao chụp cho anh. Anh rất coi trọng tư liệu, coi nó như “sinh mạng” của người nghiên cứu. Có lần, không tìm thấy một cuốn sách, anh đã thừ người, rồi dặn chúng tôi phải giữ sách cẩn thận vì không có sách là không có phương tiện làm việc. Đọc trong sách thấy ở đâu có gì mới phù hợp với ta, anh đều bảo tôi làm thử, như trộn phân hóa học với than bùn làm phân bón; ủ Urê với rơm cho trâu bò ăn; thử tác dụng của các nguyên tố vi lượng, các chất kích thích sinh trưởng lên cây lúa… Khi cần phân tích các chỉ tiêu sinh lý, anh đều đọc sách rồi hướng dẫn tôi làm hoặc dịch tài liệu giao cho tôi thực hiện.

Anh cũng tận dụng triệt để kết quả để không lãng phí công của. Chỉ với mấy thí nghiệm nhỏ về hút chất khoáng của cây lúa mà anh đã cho ra các bài nghiên cứu đăng trên tạp chí Sinh vật địa, thuộc Ban Sinh vật địa học, Ủy ban Khoa học Nhà nước[3] và cả trong diễn đàn khoa học thế giới tại Bắc Kinh, Trung Quốc (1964). Sau hơn mười năm nghiên cứu anh xuất bản cuốn sách Sinh lý của ruộng lúa năng suất cao (NXB Khoa học kỹ thuật, năm 1970), cuốn sách gồm 355 trang có tới 15 trang thống kê, gần 300 tài liệu trích dẫn. Cùng với nhiều thành tích trong hoạt động khoa học, anh Đào Thế Tuấn được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động (2005).

Từ đây tôi suy ra rằng: Tự trau dồi làm giàu kiến thức là thuộc tính của nhà khoa học.

Truyền cảm hứng khoa học cho đàn em

Anh Đào Thế Tuấn rất chú trọng tạo điều kiện và khích lệ người trẻ như tôi tiếp cận với các kiến thức khoa học mới. Trong các dịp kỷ niệm ngày sinh những nhà khoa học danh tiếng trên thế giới như Mendeleev, Lomonosov, Newton, Tricopsky, Einstein, Marie Curie… hay những buổi thuyết trình khoa học tổ chức tại Ủy ban Khoa học Nhà nước, anh đều cho tôi đi cùng. Qua được nghe các nhà khoa học trong và ngoài nước thuyết trình, tôi hiểu sâu sắc hơn về công trình nghiên cứu của họ và thấy gần gũi hơn so với khi đọc sách.

Khi đọc được chuyên đề nghiên cứu nào mới và hay, anh lại tổ chức thuyết trình trước toàn bộ môn, hoặc toàn Viện để chia sẻ kiến thức với mọi người. Cán bộ giảng dạy mới về bộ môn, anh cho đọc tài liệu vài tháng trước khi soạn giáo án. Sau đó, anh xem, góp ý, tổ chức giảng thử trước toàn bộ môn, rồi mới được chính thức giảng cho sinh viên. Nhờ thế, tôi cũng biết thêm nhiều điều. Có lần anh còn cho tôi đi thay dự hội nghị ngành ngoài như Lễ khánh thành khu gang thép Thái Nguyên làm cho đầu óc tôi được mở mang.

Khi cuộc chiến tranh trên đất nước ta bước vào giai đoạn ác liệt, thiếu lương thực rất trầm kha, anh Tuấn được Bộ Nông nghiệp điều vào Khu IV làm Trưởng đoàn chỉ đạo sản xuất, mà anh vẫn sát sao hướng dẫn các cán bộ nghiên cứu Sinh lý thực vật chúng tôi đang sơ tán ở Hưng Yên, Thái Bình, nên công tác nghiên cứu vẫn được tiến hành liên tục.

Mỗi khi tôi có cải tiến, sáng kiến gì anh đều khích lệ kịp thời. Như khi ở phòng thí nghiệm chưa có Flamphotomet (quang kế ngọn lửa) để phân tích định lượng kali, tôi mày mò đọc sách nước ngoài áp dụng phương pháp chuẩn độ bằng thuốc tím, được anh biểu dương trước toàn bộ môn. Khi làm ở Thái Bình, tham gia đề tài lúa xuân, tôi nghiên cứu đưa ra phương pháp đo diện tích lá lúa kiểu Việt Nam (đã đăng trên tạp chí Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp số tháng 4/1966) cũng được Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp tặng Giấy khen, làm cho tôi càng hăng say với công việc lao động sáng tạo. Nhờ sức truyền cảm hứng khoa học như thế, một số nhà khoa học trẻ được anh Tuấn dẫn dắt, sau này đã thành những nhà khoa học tầm cỡ trong giới khoa học nông nghiệp nước nhà đương thời trong đó có con trai anh TS Đào Thế Anh, hiện là Phó Viện trưởng Viện Khoa học nông nghiệp Việt Nam.

Tôi nghĩ anh Đào Thế Tuấn là một nhà khoa học hàn lâm mà vẫn luôn sâu sát với đời sống xã hội. Riêng tôi, nhờ anh truyền cảm hứng khoa học mà không ngừng say mê công việc và ra sức học tập. Tự cảm như sau:

Đêm đêm mải miết bên đèn sách

Đi sâu vào thế giới hữu cơ

Vũ trụ bao la và vi thể

Hiện dần lên dẫn dắt ước mơ

Vì hiện tại, tương lai Tổ quốc

Phải nâng cao kiến thức từng giờ

Qua tấm gương anh Đào Thế Tuấn tôi suy ra rằng những nhà khoa học lớn đều đóng vai trò sản sinh ra nhiều nhà khoa học kế tiếp. Thật tiếc là anh đã đi xa, tôi tiễn anh vào một ngày rét buốt. Để kết thúc bài viết này, tôi muốn thành kính gửi tới anh Đào Thế Tuấn lời kính trọng và thân thiết. 

Kỹ sư, luật gia, Đại tá Phạm Bình Nhưỡng

(*) GS.VS Đào Thế Tuấn (1931-2011), nguyên Viện trưởng Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp Việt Nam, nguyên Chủ tịch Hội Khoa học phát triển nông thôn Việt Nam. 

(**) Trong bài viết này, tác giả xin phép được gọi GS.VS Đào Thế Tuấn là anh, thân mật như những năm tháng bên nhau.

[1] Ngày 20-4-1961, toàn bộ huyện Gia Lâm của tỉnh Bắc Ninh được sáp nhập vào Hà Nội. Đến năm 1966, xã Quang Trung I đổi tên thành xã Trâu Quỳ, nay là thị trấn Trâu Quỳ, huyện Gia Lâm, Hà Nội.

[2] Từ dùng để chỉ từng đơn vị cây mạ khi bắt đầu cấy lúa.

[3] Tên gọi của Bộ Khoa học và Công nghệ trong giai đoạn 1959-1964.