Những vấn đề ngành Giải phẫu bệnh Việt Nam cần hướng tới

 Sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc (1954), Giáo sư Vũ Công Hòe cùng với các Giáo sư, đồng nghiệp bắt tay vào xây dựng, phát triển trường Đại học Y cũng như gây dựng lại hệ thống Bệnh viện ở Hà Nội do người Pháp để lại. Từ trước đó, ông chính là một trong những người đầu tiên làm về Giải phẫu và rất quan tâm nghiên cứu ngành khoa học cơ bản này. Tháng 8-1963, ông là thành viên chủ chốt trong Đoàn cán bộ Y tế của Việt Nam sang thăm và làm việc tại Liên Xô.

 

Những tháng ngày bổ ích và quý giá 

 

 Chuyến tham quan và làm việc tại Liên Xô của Giáo sư Vũ Công Hòe diễn ra trong ba tháng, từ 10-8-1963 đến khoảng 10-11-1963. Đoàn đến thăm Bộ Y tế Liên bang Xô viết, đặt vấn đề và nội dung chuyến công tác. Bộ Y tế Liên Xô ủy nhiệm cho Viện sĩ Absin (Viện trưởng Viện Hình thái học của Người – Institut de Norphologie de l’Homme) liên hệ với ngành Giải phẫu bệnh và dự thảo chương trình công tác của Đoàn cán bộ Y tế Việt Nam trong thời gian ở Liên Xô. Mục đích chuyến tham quan của Đoàn cán bộ Y tế Việt Nam nhằm học hỏi cách thức tổ chức ngành Giải phẫu bệnh ở Liên Xô, các công việc chuyên môn liên quan của chuyên ngành này như giảng dạy, đào tạo cán bộ, nghiên cứu khoa học, phục vụ công tác bệnh viện.

 Giáo sư Vũ Công Hòe đã cùng đoàn cán bộ Việt Nam tham quan và làm việc ở ba thành phố: Mátxcơva, Lêningrat và Cyxymu. Đoàn đã đến thăm nhiều nơi như: Bộ môn Giải phẫu chức năng của Viện Y học I Mátxcơva; Bộ môn Giải phẫu bệnh của Viện Y học II Mátxcơva; Viện Ung thư Mátxcơva; Bộ môn Giải phẫu bệnh của Viện Y học I Lêningrat; Viện Y học Thí nghiệm Lêningrat; Các phòng thí nghiệm về Giải phẫu bệnh, Phòng thí nghiệm về vi trùng và ung thư ở Cyxymu;… Ngoài ra, GS Vũ Công Hòe cũng tham dự các buổi thực tập, lên lớp, các buổi hội chẩn ở các Viện, các cơ quan nghiên cứu, kể cả những buổi sinh hoạt của Hội các nhà Giải phẫu bệnh Mátxcơva,….

 Trong thời gian tham quan thực tế ở Liên Xô, GS Vũ Công Hòe đã nhận thức được những vấn đề về tổ chức và chuyên môn của ngành Giải phẫu bệnh một cách khá đầy đủ và rõ ràng.

Về Tổ chức, Viện Hình thái học của Người (Institut de Morphologie de l’Homme) là Viện lãnh đạo toàn bộ ngành Giải phẫu bệnh trong Liên bang Xô viết về mặt khoa học. Viện này lãnh đạo thông qua các vấn đề như: Thứ nhất, góp ý kiến với Bộ Y tế Liên Xô về tổ chức: Giảng dạy Giải phẫu bệnh trong các Viện Y học, nghiên cứu khoa học trong các Viện Y học và Viện nghiên cứu, thực hiện công tác Giải phẫu bệnh ở các bệnh viện; Thứ hai, thông qua Hội các Nhà Giải phẫu bệnh học nhằm nghiên cứu các vấn đề chung về Giải phẫu bệnh học, trao đổi, thảo luận về các chẩn đoán khó.

Về chuyên môn, ngành Giải phẫu bệnh giảng dạy cho sinh viên theo 2 chương trình, năm thứ 3 và năm thứ 5. Năm thứ 3 học khoảng 180 giờ, trong đó có 100-120 giờ lý thuyết, 60-80 giờ thực tập; năm thứ 5 chỉ học làm tử thiết và sinh thiết, khoảng 60 giờ. Nội dung giảng dạy phong phú, các phương tiện giảng dạy rất đầy đủ như: bệnh phẩm đại thể, tranh ảnh đại thể và vi thể, đặc biệt là những diapositives rất phổ biến, các tiêu bản,…. Về mặt nghiên cứu khoa học, rất được coi trọng, chất lượng giảng dạy gắn liền với khả năng nghiên cứu khoa học. Những buổi sinh hoạt khoa học diễn ra thường xuyên trong bộ môn nhằm đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và nâng cao chất lượng giảng dạy. Ngoài ra còn có những buổi báo cáo khoa học tại Hội những Nhà Giải phẫu bệnh Mátxcơva, báo cáo ở Bộ môn, đối chiếu Giải phẫu bệnh lâm sàng,… Bộ môn Giải phẫu bệnh bao giờ cũng đặt ở các bệnh viện lớn, có đầy đủ mọi khoa lâm sàng với số giường bệnh từ 2000-2500.

 

Đề xuất cho ngành Giải phẫu bệnh của Việt Nam

Từ những thu hoạch sau 3 tháng tham quan ở Liên Xô, Giáo sư Vũ Công Hòe đã có những nhìn nhận, đánh giá về ngành Giải phẫu bệnh của Việt Nam. Theo ông, so với Liên Xô thì ngành Giải phẫu bệnh của nước ta tương đối nhỏ bé về cả số lượng cũng như chất lượng, chưa đảm bảo được những yêu cầu về mặt giảng dạy, nghiên cứu khoa học và công tác bệnh viện. Ông thẳng thắn nhận xét những ưu điểm và yếu điểm của ngành Giải phẫu bệnh ở Việt Nam: “Ta có một ưu điểm lớn là có một sự lãnh đạo vững chắc về mặt tư tưởng. Các cán bộ đều thấm nhuần tư tưởng phục vụ nhân dân là chính. Nhưng một yếu điểm của ta là quá yếu về mặt nghiên cứu khoa học, chưa quan tâm đúng mức tới vấn đề này, chưa thấy rõ sự liên quan mật thiết giữ phục vụ và nghiên cứu: muốn phục vụ tốt phải nghiên cứu giỏi, nghiên cứu giỏi để phục vụ tốt, không có mục đích nào khác. Ta thường coi nhẹ mặt nghiên cứu, dành cho nghiên cứu rất ít thời giờ, hay bỏ rơi hẳn nghiên cứu. Một yếu điểm nữa của ngành Giải phẫu bệnh của ta là hoạt động thu hẹp trong phạm vi một vài bộ môn, chưa như ở Liên Xô, trở thành một bộ phận quan trọng của các bộ môn khác và của các Viện nghiên cứu Y học”[1]. Và trên thực tế, vào thời điểm năm 1963, ngoài Hà Nội, ngành Giải phẫu bệnh gần như không hoạt động hay rất ít hoạt động. Do đó thống kê bệnh tật gây tử vong không có cơ sở khoa học vững chắc. Ngay tại Hà Nội cũng chưa có sự liên hệ cần thiết và sự lãnh đạo thống nhất của toàn ngành.

 

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Bệnh viện Bạch Mai.

Giáo sư Vũ Công Hòe (người đeo kính) cùng các cán bộ đón tiếp Chủ tịch và giới thiệu về Bệnh viện, Hà Nội 1955

 Dựa trên những điều mắt thấy tai nghe tại Liên Xô và thực tế ở nước ta, Giáo sư Vũ Công Hòe đã mạnh dạn đưa ra những đề xuất về lâu dài cũng như trước mắt đối với ngành Giải phẫu bệnh của Việt Nam.

 

Đối với công việc trước mắt . Để phát triển ngành Giải phẫu bệnh ở Việt Nam, với tư cách là nhà Giải phẫu bệnh hàng đầu Việt Nam, Giáo sư Vũ Công Hòe đã đề ra một số kiến nghị nhằm giải quyết các công việc trước mắt tập trung vào ba mảng chính:

Đối với công tác ở các bệnh viện, cần khuyến khích việc thường xuyên mổ xác để kiểm điểm tử vong, cố gắng tận dụng hợp lý những bác sĩ Giải phẫu bệnh đã được đào tạo, làm cho việc đối chiếu giải phẫu – lâm sàng sẽ trở nên nền nếp ở các bệnh viện Trung ương cũng như địa phương.

Trong công tác giảng dạy và đào tạo cán bộ: Cần đưa vào nguyên tắc việc đào tạo thường xuyên các cán bộ Giải phẫu bệnh cho các bệnh viện, các trường Y cao cấp, trung cấp và các Viện nghiên cứu, dù chỉ 1-2 cán bộ mỗi năm. Giáo sư Vũ Công Hòe tiếp tục nhấn mạnh việc trang bị cho dạy và học: “Để công tác giảng dạy của Bộ môn Giải phẫu bệnh khỏi què quặt, cho phép và giúp đỡ Bộ môn Giải phẫu bệnh lập một phòng tranh ảnh, từ thấp đến cao, bắt đầu vẽ và chụp ảnh đại thể, vi thể đen rồi màu, đi đến làm các diapositives (Slide – TG) đen và màu là công cụ giảng dạy và thông báo khoa học không thể thiếu của những nhà khoa học hình thái (sciences morphologiques). Đã đành tranh ảnh là cần thiết cho mọi bộ môn, nhưng đối với các Bộ môn Hình thái học, nó cần thiết hơn”[2].

Đặc biệt nhất, Giáo sư Vũ Công Hòe đề nghị với Bộ Y tế: “Đề nghị Bộ công nhận đó là một công tác không những có ích mà cần thiết, không những đối với các cán bộ giảng dạy mà đối với mọi cán bộ làm công tác y học. Thống kê bệnh tật tốt, kiểm điểm tử vong tốt có đối chiếu với Giải phẫu bệnh,… đó là đóng góp vào công việc nghiên cứu khoa học”[3]. Ngoài ra, cần khuyến khích việc đưa nghiên cứu khoa học làm một tiêu chuẩn thi đua để giảng dạy tốt và phục vụ bệnh nhân tốt. Nên để mỗi Bộ môn có 1-2 cán bộ trong biên chế chuyên về nghiên cứu, có quản lý thời gian chặt chẽ, có báo cáo bắt buộc với Bộ môn, với nhà trường và với Bộ Y tế.

 Trong công tác nghiên cứu khoa học cần hết sức chú ý đến việc phổ biến công trình nghiên cứu. Để làm tốt việc này, theo GS Vũ Công Hòe: “In ra mà để xó, lẽ tất nhiên là lãng phí. Muốn in ra mà có người đọc, phải có nhiều cán bộ tha thiết với công tác nghiên cứu. Đó là một việc làm lâu dài, nhưng phải bắt tay làm ngay để dần dần đưa vào nền nếp công tác nghiên cứu”. Theo ông, vấn đề khó khăn nhất là: “Vấn đề khó giải quyết hơn là vấn để khả năng, hay đúng hơn là vấn đề tự ti. Qua thăm Liên Xô tôi nhận thấy rằng chủ yếu ở đây là vấn đề lãnh đạo và tổ chức: miễn là Bộ và Nhà trường khuyến khích, tạo điều kiện và cũng đòi hỏi nghiên cứu, mỗi cán bộ sẽ bắt buộc tự giác. Với thời gian 1-2 năm hay 4-5 năm trở thành những nhân viên nghiên cứu trong một phạm vi nhỏ hay lớn, tùy từng hoàn cảnh. Bằng cách chuyên môn hóa triệt để, tôi đã thấy ở Liên Xô người ta đào tạo một cách tương đối dễ dàng một hàng ngũ đông đảo các cán bộ nghiên cứu. Điều đó thiết tưởng chúng ta có thể làm được, miễn là Bộ chú ý tới”[4].

Về định hướng lâu dài: Đối với công tác ở các bệnh viện, Giáo sư Vũ Công Hòe cho rằng phải xây dựng một đội ngũ cán bộ ngành Giải phẫu bệnh đầy đủ để đảm bảo cho việc kiểm điểm tử vong ở các bệnh viện Trung ương cũng như địa phương được thực hiện trên một cơ sở khoa học vững chắc. Giáo dục dần tư tưởng nhân dân theo đường lối khoa học, bỏ dần những phong tục tập quán duy tâm, không có lợi ích cho khoa học. Thực hiện từng bước việc mổ tủ thi 100% trong các bệnh viện, trước hết là ở Hà Nội, sau đến các địa phương, mới đầu khuyến khích để sau đi vào nguyên tắc.

Trong giảng dạy: Tăng thêm số giờ giảng dạy của lớp Y3, dạy thêm một số giờ về mổ xác, chẩn đoán sinh thiết, tử thiết, đối chiếu giải phẫu – lâm sàng cho sinh viên Y5 nhằm nâng cao chất lượng của các bác sĩ mới ra trường; Đào tạo một đội ngũ y bác sĩ cần thiết không những cho công tác bệnh viện mà cho các công tác nghiên cứu ở các bộ môn lâm sàng và các Viện nghiên cứu; Tăng thêm phương tiện cho công tác giảng dạy, chủ yếu là xây dựng một phòng ảnh đại thể và vi thể. Ở khía cạnh này ông nhấn mạnh: “Giải phẫu bệnh là một môn học hình thái, phương tiện mô tả hình thái là tranh ảnh, không có phương tiện về tranh ảnh thì Bộ môn Giải phẫu bệnh sẽ chỉ là một bộ môn què quắt, như trong tình trạng hiện tại”[5].

Đối với công tác nghiên cứu khoa học: Xây dựng thêm một phòng nuôi cấy tế bào để giúp cho việc chẩn đoán Giải phẫu bệnh, đặc biệt là chẩn đóa các khối u,…; Xây dựng một phòng tổ chức hóa học. Đây là một việc không quá khó khăn, để thực hiện việc này chỉ cần một số hóa chất cơ bản là có thể làm được; Xây dựng một phòng chẩn đoán tế bào; Nuôi một số súc vật cần thiết cho công tác nghiên cứu: thỏ, chuột, khỉ,… ; Phối hợp chặt chẽ giữa Bộ môn Giải phẫu bệnh với các bộ môn khác trong nghiên cứu, phối hợp công tác nghiên cứu ở Trung ương với địa phương; Tăng cường hàng ngũ nghiên cứu ngành Giải phẫu bệnh, đi dần đến việc thành lập Hội các Nhà Giải phẫu bệnh Việt Nam.

Song song với các phương hướng ở trong nước, cần tăng cường trao đổi thường xuyên các vấn đề nghiên cứu và các tài liệu khoa học với quốc tế, đặc biệt là Liên Xô.

 Những vấn đề trên do Giáo sư Vũ Công Hòe đề xuất không chỉ dựa trên những gì ông đã học hỏi được từ đất nước Liên Xô mà còn là sự tâm huyết của một người đã có nhiều năm gắn bó với công tác Giải phẫu bệnh. Những dòng cuối cùng trong bản Báo cáo chuyến đi thăm Liên Xô, ông một lần nữa nhấn mạnh điều ấy: “Tôi đã trông thấy nhiều và cũng học được nhiều. Cảm tưởng chung là ngành Giải phẫu bệnh của ta còn rất yếu về mọi mặt: công tác bệnh viện chưa làm được bao nhiêu, công tác giảng dạy gần như thiếu một công cụ chủ yếu là phòng tranh ảnh có tổ chức hẳn hoi, để diễn đạt một môn học gọi là hình thái, công tác nghiên cứu còn chập chững chưa đi vào nền nếp… Nhưng tất cả các yếu điểm trên ta có thể khắc phục một cách tương đối dễ dàng, miễn là Bộ chú ý tới, khuyến khích và nâng đỡ”[6].

 Những đề xuất cách đây nửa thế kỷ nhằm xây dựng, phát triển ngành Giải phẫu bệnh Việt Nam sẽ vẫn là những tư liệu quan trọng trong tiến trình lịch sử phát triển của Ngành mà Giáo sư Vũ Công Hòe là một phần lịch sử của nó.

Nguyễn Thanh Hóa

Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam


[1] Trích Báo cáo công tác ở Liên Xô của đại diện ngành Giải phẫu bệnh do GS Vũ Công Hòe viết, 11-1963.

 

[2] Trích Báo cáo công tác ở Liên Xô của đại diện ngành Giải phẫu bệnh do GS Vũ Công Hòe viết, 11-1963.

 

[3] Trích Báo cáo công tác ở Liên Xô của đại diện ngành Giải phẫu bệnh do GS Vũ Công Hòe viết, 11-1963.

 

[4] Trích Báo cáo công tác ở Liên Xô của đại diện ngành Giải phẫu bệnh do GS Vũ Công Hòe viết, 11-1963.

 

[5] Trích Báo cáo công tác ở Liên Xô của đại diện ngành Giải phẫu bệnh do GS Vũ Công Hòe viết, 11-1963.

 

[6] Trích Báo cáo công tác ở Liên Xô của đại diện ngành Giải phẫu bệnh do GS Vũ Công Hòe viết, 11-1963.