Khát vọng từ miền quê ngoại

Nỗi niềm ly hương, đổi họ

PGS.TS Ngô Văn Quỳ sinh ngày 24-6-1937, tại Nghệ An. Ông cụ thân sinh ra PGS.TS Ngô Văn Quỳ tên thật là Nguyễn Hữu Hòe, thuộc dòng họ Nguyễn Hữu ở thôn Thanh Xá, xã Nghĩa Hiệp, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên. Các thế hệ trước ông, có người theo Tây học, người theo Nho học nhưng đều sống thoát ly và ít liên hệ với quê gốc. Bản thân ông Nguyễn Hữu Hòe cũng là một người thích phiêu lưu, muốn được đi đây đi đó để mở rộng tầm mắt. Vì thế, năm 1914 – khi Pháp tuyển chọn lính phục vụ cho Đại chiến thế giới lần thứ I, ông đã tình nguyện đăng ký tham gia nhưng không đạt tiêu chuẩn về sức khỏe. Để được lên tàu sang Pháp, ông đã chịu mất một khoản tiền để đổi thẻ căn cước với một người tên là Ngô Văn Minh. Ông chính thức thay tên đổi họ từ khi ấy. Năm 1918, ông trở về Việt Nam và làm việc cho chính quyền Pháp trong ngành Hải quan ở nhiều nơi. Thời gian làm việc tại khu vực Đồng Muối (Nghệ An), ông đã kết hôn lần 2 với bà Lê Thị Ngôn – khi đó từ Thanh Hóa vào Nghệ An để tìm việc. Trước khi chuyển ra ngoài Quảng Ninh sinh sống và làm việc, ông bà sinh được 2 người con trai là Ngô Văn Quý và Ngô Văn Quỳ tại Nghệ An. Mặc dù Ngô Văn Quỳ hơn tuổi một người anh trai cùng cha khác mẹ, nhưng về vai vế, ông vẫn là con út trong một gia đình gồm 6 anh chị em.

Ngô Văn Quỳ (đứng thứ nhất, từ trái) và các anh trai

tại Cửa Ông, Quảng Ninh, tháng 3-1941

Năm 1940 là một năm đầy biến cố đối với gia đình Ngô Văn Quỳ, thân sinh của ông là Nguyễn Hữu Hòe đột ngột qua đời sau một cơn bạo bệnh. Lúc này gánh nặng về kinh tế dồn xuống vai hai người vợ bởi phía sau là 6 người con, đang tuổi ăn học và người nhỏ nhất vừa mới chào đời được vài tháng. Khi ông Nguyễn Hữu Hòe còn sống, tiền lương của ông là nguồn thu nhập duy nhất trong gia đình, “sau khi cụ mất, kinh tế của gia đình hoàn toàn suy sụp, không có bất cứ một nguồn thu nào, đến một căn nhà để ở cũng không có”[1]. Để thay cha gánh vác việc gia đình, người anh cả – cùng cha khác mẹ là Ngô Văn Quế lúc bấy giờ 18 tuổi và đang học ở trường Quốc học Thăng Long (Hà Nội), đã phải bỏ học và xin làm thư ký tập sự ở đồn Hải quan Cửa Ông – nơi bố làm việc trước đây. Mặc dù đã hết sức cố gắng nhưng đồng lương của một người học việc không thể đảm bảo mức sinh hoạt tối thiểu cho một gia đình có tới 8 miệng ăn. Vì vậy, tháng 3-1941, bà Lê Thị Ngôn buộc phải đưa hai con trai ruột của mình về nương nhờ quê ngoại tại xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Khi đó, Ngô Văn Quỳ còn quá nhỏ để có thể nhận biết được mọi chuyện đang diễn ra xung quanh mình và ông cũng chưa thể hiểu được rằng cuộc đời mình từ đây sẽ rẽ sang một hướng khác với bao khó khăn, trắc trở. 

Nuôi khát vọng từ miền quê ngoại 

Có thể khi đó Ngô Văn Quỳ không hiểu được rằng mẹ ông đã suy sụp như thế nào từ khi bố qua đời và ông cũng không hiểu được nỗi lo lắng của một người mẹ trẻ khi phải đưa 2 con thơ về nương nhờ quê ngoại. Thế nhưng nghị lực phi thường của mẹ, ơn cưu mang, đùm bọc trong tình thương sâu nặng của dòng họ ngoại và truyền thống khoa bảng tự bao đời của một miền quê văn vật nơi mẹ con ông về sinh sống đã in đậm vào tâm hồn Ngô Văn Quỳ và để rồi khi trưởng thành, khát vọng lập thân lập nghiệp đối với ông như một niềm thôi thúc không lúc nào nguôi ngoai.

Mẹ ông đã nhận được sự cảm thông, chia sẻ và hết sức tạo điều kiện từ hai người em ruột khi bồng bế các con từ Móng Cái vào Thanh Hóa. Ban đầu, ba mẹ con ông ở chung nhà với các cậu. Bằng sự tháo vát, nhanh nhẹn và chịu thương chịu khó, sau một thời gian vừa làm nghề dệt vải, vừa đi buôn, mẹ ông đã dành dụm tiền để dựng một ngôi nhà tre lợp lá cọ trên khoảng vườn cạnh nhà. Để mưu sinh, bà thường đi đò dọc theo dòng sông Mã trong nhiều ngày để lên phía thượng nguồn thu mua các sản vật như mít, chuối… đem về dưới xuôi bán. Mỗi lần mẹ đi vắng, thì anh trai Ngô Văn Quý – là một người rất ân cần, chu đáo, khéo tay – chính là người thầy đầu tiên dạy ông tập viết chữ, học cách đan lát, dệt vải… Ý thức tự lập của ông đã hình thành từ rất sớm, trong hoàn cảnh đầy khó khăn như vậy.

Bà Lê Thị Ngôn xuất thân là con gái của một thầy đồ, thuộc dòng họ Lê Huy giàu truyền thống hiếu học, trong lịch sử đã từng có người đỗ Tiến sĩ và được ghi danh trong Văn Miếu Quốc Tử Giám, cho nên bà hết sức quan tâm đến việc học hành của các con cũng như thấu hiểu đạo lý trong mối quan hệ thày – trò. Vì thế dù khó khăn, thiếu thốn nhưng vào mỗi dịp Tết bà vẫn cố gắng chuẩn bị một mâm cơm tươm tất để mời các thầy dạy của hai con đến nhà dùng bữa, qua đó hỏi thăm việc học của các con. PGS.TS Ngô Văn Quỳ kể rằng: “Hồi đó vì nhà tôi nhỏ quá, lại là nhà tranh vách nứa nên mỗi khi mời thầy tới thăm nhà, mẹ lại chuẩn bị ở ngôi nhà trên của các cậu. Anh em chúng tôi phải đứng ngoài cổng, khi các thầy đến thì khoanh tay lại và chào: Lạy thầy ạ!”[2].

Đến bây giờ PGS.TS Ngô Văn Quỳ vẫn còn nhớ như in những bài học nhẹ nhàng nhưng có ý nghĩa giáo dục sâu sắc và thấm thía từ ngày học Tiểu học. Giọng đọc truyền cảm của một thầy giáo già cách đây 70 năm như còn đọng mãi trong trí nhớ của ông: “La partie – Est la maison qui m’a vu naitre. Est la jardin que j’aime” (Tổ quốc – Chính là mái nhà bạn đã sinh ra. Chính là mảnh vườn mà bạn yêu mến)… Cũng từ ngày còn đang học Tiểu học tại trường Hoằng Bột[3], trong những bài giảng của thầy, Ngô Văn Quỳ và đám học trò cùng xã thường được nghe kể về những nhân vật lịch sử, về truyền thống khoa bảng của quê hương với 12 nhân tài được vinh danh trên bảng vàng đại khoa từ thời phong kiến. Đây, quê hương của Trạng Quỳnh – một nhân vật dù chỉ đỗ hương cống nhưng hết sức tài ba, nổi tiếng hài hước, được người đời tôn vinh và ngợi ca, đến nay còn nhiều giai thoại thú vị. Và đây, Bảng Môn Đình – nơi thể hiện sự ngưỡng vọng của người dân đối với vị tướng quân giúp vua đánh giặc, đồng thời cũng là một biểu tượng bất tử về Đạo học của mảnh đất “Địa linh nhân kiệt”, đúng như tên gọi của nó – cửa vào của các nhà khoa bảng. Xưa kia, Bảng Môn Đình là nơi suy tôn các vị tân khoa, là nơi gặp gỡ giao lưu qua các buổi bình văn giảng tập của nhiều thế hệ nho sinh nuôi khát vọng lập thân bằng con đường khoa cử. Ngô Văn Quỳ say sưa đắm chìm trong dòng chảy văn hóa truyền thống và những câu chuyện về một thời vàng son quá vãng nơi quê mẹ, để rồi nhận ra rằng mình phải quyết tâm đi theo con đường học tập, trau dồi tri thức giúp ích cho đời. Và chỉ có con đường ấy, ông mới đền đáp được công lao của mẹ, ơn đùm bọc của quê ngoại trong một quãng đời gian khó.

Học hết lớp Đệ nhất niên tại trường cấp II dân lập Nghĩa Hưng[4] – ngôi trường cấp II dân lập đầu tiên trong kháng chiến chống Pháp của vùng tự do Liên khu IV – năm 1951, Ngô Văn Quỳ chuyển sang trường cấp II Hoằng Hóa – là trường quốc lập đầu tiên của huyện. Thời kỳ đó, để tránh máy bay địch học sinh phải học vào ban đêm. Địa điểm học là các ngôi đền, chùa tại Bút Sơn, cách nhà ông chừng 7-8 cây số, ông cùng với đám bạn thường đi bộ từ 3 giờ chiều để tới lớp, đến đêm lại cùng nhau đi về, trên tay lúc nào cũng cầm một ngọn đèn dầu. Một thời gian sau, ông xin phép mẹ ra Bút Sơn ở cùng gia đình người anh họ – tên là Nguyễn Trọng Ngạn – để vừa học vừa làm, ban ngày Ngô Văn Quỳ phụ giúp anh sửa xe đạp, tối lại tiếp tục đi học, đêm đến ông phải ngủ trên thùng hàng cùng với 2 người anh họ (em trai ông Ngạn). Trong hoàn cảnh khó khăn như vậy nhưng Ngô Văn Quỳ vẫn luôn là một học sinh giỏi của lớp. 

Và những may mắn trong cuộc đời

Đến năm 1953, sau khi học hết lớp 7 và kết thúc một khóa học bổ túc, Ngô Văn Quỳ phải nghỉ học vì nhà không có điều kiện để ông theo học tại các trường cấp III của tỉnh như Lam Sơn, Đào Đức Thông. Giữa lúc ấy, quân và dân ta chuẩn bị mở chiến dịch Điện Biên Phủ, ông hăng hái tham gia lực lượng thanh niên xung phong đi mở đường cho chiến dịch cùng với một số bạn bè đồng trang lứa ở địa phương. Khi đoàn hành quân đến khu vực Dốc Cun (Hòa Bình) thì Ngô Văn Quỳ được lệnh trở về vì lý do ít tuổi, sức khỏe yếu không đủ sức để tiếp tục hành quân lên Tây Bắc. Trở về Hoằng Lộc, Ngô Văn Quỳ tham gia sản xuất vải cùng với mẹ, đồng thời giam gia các hoạt động kháng chiến của địa phương như: thanh niên cứu quốc, du kích chiến đấu, cứu thương, xóm đội…

Ngô Văn Quỳ (đứng hàng sau, thứ nhất, từ trái) và các bạn đồng trang lứa tại Thanh Hóa,

trước khi lên đường tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, năm 1953

May mắn đầu tiên đến với ông, đó là vào tháng 2-1956, Nhà nước có chủ trương cho những học sinh cấp 2 của vùng tự do ra Hà Nội học tại Trường Bổ túc công nông Trung ương, nhằm mục đích bồi dưỡng cán bộ và con em công nhân, nông dân chuẩn bị vào học tại các trường Đại học, Trung học Chuyên nghiệp sau này. Ngô Văn Quỳ được tham gia khóa học đầu tiên của trường. Ngày đó, trường nằm ở khu vực ấp Thái Hà, lớp học và khu nhà ở cho học sinh là những dãy làm bằng tre, lợp lá cọ… cuộc sống sinh hoạt và học tập tuy vất vả nhưng đó là quãng thời gian đầy ý nghĩa đối với Ngô Văn Quỳ. Sau khi vượt qua kỳ kiểm tra cuối khóa, tháng 10-1956 Ngô Văn Quỳ trở thành sinh viên khóa I, Khoa Xây dựng, trường Đại học Bách khoa. Cảm giác vui sướng, xen lẫn lạ lẫm khi bước chân vào trường đại học cứ len lỏi trong suy nghĩ của Ngô Văn Quỳ. Buổi khai giảng năm 1956 được tổ chức tại Sân vận động Hàng Đẫy, có Bộ trưởng Bộ Quốc gia giáo dục Nguyễn Văn Huyên tới động viên khích lệ.

Thời gian đầu, việc học tập đối với ông diễn ra rất khó khăn, lại bị kỳ thị là “sinh viên 7 rưỡi”[5], ý thức được vị trí của mình lúc đó – thuộc thành phần bổ túc công nông, trình độ còn kém, lại hoàn cảnh nhà nghèo…nên ông cố gắng rất nhiều để theo kịp chương trình. Kỷ niệm về những ngày mới bước chân vào trường đại học vẫn in đậm trong tâm trí của ông: “Thầy Nguyễn Sanh Dạn lúc bấy giờ là Phó Chủ nhiệm khoa Xây dựng, phụ trách nhiều môn, trong đó có môn Họa hình. Tôi mới chỉ học hết cấp II không biết thế nào là hình không gian, không hiểu thế nào là điểm chiếu, hình chiếu… Học được vài tuần thì thầy cho làm một bài kiểm tra, và tôi bị thầy cho điểm 1- (trừ), thầy không nỡ cho điểm 0, mà cho điểm 1 thì không xứng đáng. Nhưng đến năm thứ 3, khi tôi đã nắm được các mặt cơ bản về lý thuyết, lại vẽ đẹp nên chính thầy đã lấy bản vẽ kỹ thuật hình họa của tôi để đem đi triển lãm sinh viên”[6].

Thời sinh viên, ông phải mặc quần áo xita mà các cán bộ miền Nam tập kết về Thanh Hóa đã bỏ đi, mẹ ông lấy lại và gửi ra cho ông mặc. Bà còn gửi cho ông 1 chiếc chăn đơn. Trước khi tham gia vào Công trường đại thủy nông Bắc Hưng Hải (1958), ông được nhà trường bình xét vào danh sách sinh viên nghèo và được tặng một bộ quần áo bà ba bằng vải gụ cùng với một chiếc chăn đơn.

May mắn thứ hai lại đến. Tháng 6-1959, sau khi kết thúc năm học thứ 3, Nhà nước có chủ trương đào tạo đội ngũ cán bộ giảng dạy đại học một cách bài bản. Trong lớp sinh viên đầu tiên cử sang học chuyển tiếp tại trường Đại học Xây dựng Mátxcơva để sau này về làm cán bộ giảng dạy, có Ngô Văn Quỳ. Sau những bỡ ngỡ ban đầu cùng với những khó khăn về ngôn ngữ trong một môi trường học tập hoàn toàn xa lạ, Ngô Văn Quỳ đã dần hòa nhập. Ba năm học ở Liên Xô đã để lại cho Ngô Văn Quỳ không chỉ là kiến thức, sự trải nghiệm, mà còn để lại ấn tượng sâu sắc về tình người. Quên làm sao những buổi đi dạo khắp Mátxcơva cùng thầy chủ nhiệm trong 6 tháng đầu học tiếng Nga. Quên làm sao những thời khắc tuyệt diệu – “nơi những chiều hè đều mất dấu bóng hoàng hôn” tại Lêningrat trong dịp đêm trắng[7], xua tan cái mệt nhọc sau một ngày làm việc trên công trường xây dựng vào kỳ thực tập năm 1960. Quên làm sao những kỳ nghỉ hè nhưng luôn tất bật trong các nhà máy, phân xưởng để có thêm thu nhập trang trải cho cuộc sống. Những năm tháng đó, ông mới hiểu hết được tình cảm chân thành của người Nga dành cho nhân dân Việt Nam và sự quan tâm, ưu ái của họ dành cho thế hệ sinh viên Việt Nam đang học tập tại nước bạn.

Trở về nước vào tháng 6-1962, sau khi bảo vệ thành công luận văn tốt nghiệp với đề tài “Thiết kế gara ô tô nhiều tầng”, Ngô Văn Quỳ được phân công làm cán bộ giảng dạy tại Bộ môn Thi công, Khoa Xây dựng, trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Năm 1966, trường Đại học Xây dựng thành lập (trên cơ sở Khoa Xây dựng, trường Đại học Bách khoa), Ngô Văn Quỳ được phân công về Đại học Xây dựng làm công tác giảng dạy. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu (năm 2002), PGS.TS Ngô Văn Quỳ đã đảm đương các chức vụ: Phó Chủ nhiệm Bộ môn, Chủ nhiệm Bộ môn Thi công; Phó Chủ nhiệm khoa, rồi Chủ nhiệm Khoa Xây dựng; Bí thư Chi bộ, Ủy viên Đảng bộ trường Đại học Xây dựng… Đồng thời trên nhiều công trình xây dựng lớn còn in đậm dấu ấn của ông: Công trình trường Đại học Bách khoa, Công trình Bảo tàng Dân tộc học, Công trình khách sạn Press Club, Công trình khách sạn 5 sao Opera Hilton, Công trình khách sạn 4 sao Victoria Sapa…

***

Năm 2012 nhà thờ dòng họ Lê Huy, xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa được xếp hạng Di tích lịch sử cấp Tỉnh. Nhân dịp này, PGS.TS Ngô Văn Quỳ đã về dâng lên các bậc tiền nhân nén hương thành kính. Đó cũng là tấm lòng tri ân sâu sắc của ông đối với miền quê mẹ – nơi đã nuôi dưỡng, dìu dắt và chắp cánh ước mơ trong ông từ những ngày tháng gian nan đầu đời.

 

Đỗ Minh Khôi

Trung tâm Di sản các nhà Khoa học Việt Nam

 

_______________________________

 

[1]; [2]; Phỏng vấn ghi hình PGS.TS Ngô Văn Quỳ, ngày 29-8-2013.

[3] Trước Cách mạng tháng Tám 1945, xã Hoằng Lộc có tên gọi là Hoằng Bột, gồm hai làng Hoằng Nghĩa và Bột Hưng.

[4] Ghép từ hai tên làng Hoằng Nghĩa, Bột Hưng, thuộc xã Hoằng Lộc.

[5] Số học viên đã học xong  trình độ lớp 7, cộng thêm nửa năm học Bổ túc công nông.

[6] Phỏng vấn ghi hình PGS.TS Ngô Văn Quỳ, ngày 20-9-2013.

[7] Tại Lêningrat (nay là Saint Peterburg), vào mùa hè có khoảng 1 tháng đêm trắng, buổi tối trời sáng có thể nhìn rõ mặt nhau.