Trong hoàn cảnh thù trong giặc ngoài và nạn đói kém hoành hành sau khi nước ta mới giành được độc lập, bác sĩ Đỗ Xuân Hợp cùng với vợ là bà Nguyễn Thị Thịnh tích cực tham gia vào phong trào chung của đất nước. Trước đó, bác sĩ Đỗ Xuân Hợp là trợ lý giảng dạy Bộ môn Giải phẫu học Đại học Y Hà Nội, dưới sự chỉ đạo của GS Pierre Huard – Giám đốc Viện Giải phẫu. Khi ấy, bác sĩ Đỗ Xuân Hợp được mời làm Chủ tịch khu phố Chợ Hôm, ông bỏ phòng khám Tai Mũi Họng của mình để tập trung công việc này, đồng thời dạy về giải phẫu ở Viện Giải phẫu, cũng như mở lớp Hồng Thập tự để đào tạo y tá cho Việt Minh. Còn bà Thịnh, được sự động viên của chồng cũng tích cực tham gia công tác xã hội. Từ năm 1946 đến năm 1954 bà giữ nhiều chức vụ như: Phó Hội trưởng Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam khóa 1 (1946-1950); Quyền Hội trưởng Tổng Hội Giáp binh sĩ bị thương Việt Nam (1946-1954). Trong những ngày diễn ra nạn đói, bà Thịnh cùng với cụ Vũ Đình Tụng tham gia vào Ban phát chẩn do Giáo sư Huard (Giáo sư người Pháp đã có nhiều năm giảng dạy ở Việt Nam, là thầy giáo, đồng nghiệp của GS Tôn Thất Tùng, Hồ Đắc Di) tổ chức để cứu đói cho nhân dân ở Hà Nội.
Chuyện ở tù của vị Chủ tịch Hội cứu đói
Sau Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh giao cho bác sĩ Đỗ Xuân Hợp giữ chức Chủ tịch Hội Cứu đói. Người dặn: “Dân ta đã chết đói hàng triệu người, có thể còn chết thêm triệu nữa. Chú làm thế nào để cứu được triệu người ấy, có kế hoạch gì hay thì Bác cũng theo. Chú về cùng với mọi người bắt tay ngay vào việc đó”. Người cũng động viên thêm: “Anh cứu đê (ông Đỗ Xuân Dung là anh trai của bác sĩ Đỗ Xuân Hợp, phụ trách về đê điều Bắc bộ), chồng cứu đói, vợ cứu thương, gia đình tốt”[1].
Được giao nhiệm vụ, bác sĩ Đỗ Xuân Hợp cùng với các đồng chí trong Ban Chấp hành Hội Cứu đói đã xuống đường tuyên truyền rộng rãi trong quần chúng, đẩy xe bò đi quyên tiền, gạo ở khắp các đường phố của Hà Nội.
Vào một buổi tối, khoảng giữa năm 1946, bác sĩ Đỗ Xuân Hợp được báo có một vị khách muốn gặp để bàn về chuyện cứu đói, người đó là ông Đỗ Đức Thọ, Phó Giám đốc Bưu Điện Hà Nội. Bác sĩ Đỗ Xuân Hợp tiếp vị khách này và rất hào hứng với kế hoạch in tem để bán lấy tiền cho vào quỹ cứu đói. Sau khi kế hoạch in tem được thống nhất, bác sĩ Đỗ Xuân Hợp cùng với Giám đốc Bưu điện Nguyễn Tường Thụy, Phó Giám đốc Đỗ Đức Thọ tiến hành ký kết với nhau một văn bản. Khi ấy, bác sĩ Đỗ Xuân Hợp không biết rằng ông Nguyễn Tường Thụy (Ông Nguyễn Tường Thụy chính là em trai của Nguyễn Tường Tam, một thành viên Quốc hội và chống Việt Minh) và Đỗ Đức Thọ là người của Việt Nam Quốc Dân đảng nên nhẹ dạ tin theo kế hoạch in tem, miễn sao có tiền để cứu đói cho nhân dân. Lúc đó, ông còn vui vẻ nói với vợ của mình về kế hoạch đó: “Thật là trời giúp, Hội Cứu đói sẽ có rất nhiều tiền. Anh biết mà, cứ mạnh bạo làm việc đi, khối người tốt bụng sẽ đến với mình”[2].
Bác sĩ Đỗ Xuân Hợp khi mới nhập ngũ, cuối năm 1946
Sau đó việc in tem được giao toàn bộ cho ông Đỗ Đức Thọ ở nhà in Lê Văn Tân. Số tiền bán tem theo ký kết được đưa vào Quỹ Hội Cứu đói do Kiến trúc sư Bạch Văn Thụ giữ. Nhưng việc không chỉ có thế, ông Đỗ Đức Thọ còn tiếp tục in tem với số lượng lớn và phát tán rộng rãi, không theo những thỏa thuận đã ký giữa những người có trách nhiệm. Điều đáng nói là số tem được in không theo quy định đã ký kết, cái thì in chệch choạch không đúng vị trí, sai màu sắc, hình dáng tem,… Điều này có ảnh hưởng chính trị hết sức lớn, nhất là đối với một Chính phủ mới được thành lập. Bạn bè quốc tế, các đảng phái đối lập sẽ căn cứ vào việc này mà nói xấu Chính phủ Việt Nam.
Sự việc sai trái do ông Đỗ Đức Thọ làm bị vỡ lở, ông Đỗ Đức Thọ bị bắt ngay , sau đó ông Nguyễn Tường Thụy cũng bị bắt. Nhưng nhiều người cho rằng ông Tường Thụy bị oan, vì mọi việc đều do ông Đỗ Đức Thọ làm, nếu bắt ông Thụy thì phải bắt cả bác sĩ Đỗ Xuân Hợp vì cũng là người liên quan đến kế hoạch in tem. Trước dư luận, biểu tình của những người theo Việt Nam Quốc dân Đảng, mặc dù biết bác sĩ Đỗ Xuân Hợp do sơ xuất, tin người mà liên đới, nhưng Chính phủ Việt Nam vẫn phải bắt ông để xoa dịu dư luận. Ông bị bắt ngày 12-9-1946 (tức ngày 17-8 âm lịch năm Bính Tuất) và bị giam ở nhà tù Hỏa Lò, Hà Nội.
Những ngày sau đó, vợ của ông – bà Nguyễn Thị Thịnh, một mặt vẫn tích cực tham gia công tác của Hội Giáp binh sĩ bị thương Việt Nam, mặt khác tìm mọi cách minh oan cho chồng. Khi đến thăm chồng, bà gặp Chánh án là ông Lê Văn Chất. Vị Chánh án này động viên: “Chị hiểu cho, chúng tôi đều đau lòng, buộc phải bắt anh, không làm thế nào khác được. Nhiều lần anh ra (ra Tòa án) định mời anh ở lại nhưng không nỡ, lại để anh về, anh không nói gì với chị sao? Lần này nguy quá, mời anh ra, anh vẫn tưởng như mọi lần trước, đến lúc bảo anh ở lại, anh ngẩn người ra. Biết anh bị oan mà không làm sao được…”[3]. Ý của ông Lê Văn Chất là bác sĩ Đỗ Xuân Hợp bị oan, nhiều lần được mời lên Tòa án nhưng không nỡ bắt giam, bần cùng lắm mới phải bắt nên cảm thấy rất áy náy.
Việc bác sĩ Đỗ Xuân Hợp bị bắt nhận được rất nhiều sự quan tâm, thông cảm của các vị lãnh đạo trong Chính phủ Việt Nam lúc bấy giờ. Tại buổi họp sơ kết của Hội Giáp binh sĩ bị thương Việt Nam diễn ra tại Nhà hát lớn Hà Nội, có sự tham dự của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, cụ Huỳnh Thúc Kháng – khi ấy là quyền Chủ tịch Chính phủ thay Chủ tịch Hồ Chí Minh đang dự Hội nghị Fontainebleau diễn ra tại Pháp. Tại đó, cụ Huỳnh Thúc Kháng gặp bà Nguyễn Thị Thịnh động viên, chia sẻ: “Bà thông cảm nhé, tất cả Chính phủ đều đau lòng về việc ông Hợp, ai cũng biết ông oan, nhưng không có cách nào khác. Bà có vào thăm ông nói lại hộ như thế. Nhà tù vàng đấy?. Đó cũng là một cách hy sinh cho đất nước. Cũng chóng thôi rồi lại ra. Tôi còn phải ở Côn Đảo 17 năm cơ”. Nghe vậy, bà Thịnh đáp lại: “Thưa cụ, 17 năm âm thầm của cụ là 17 năm cứu quốc. Nay toàn dân đã biết, còn có vinh dự nào hơn. Còn nhà cháu đây, vì dại dột mà bị, ngoài nhân dân ai mà hiểu biết, nên chúng cháu nhục nhã lắm, ví sao được với cụ”[4].
Và chuyện tòng quân
Sau khi ở Pháp về nước, tháng 11-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho người gọi bà Nguyễn Thị Thịnh lên gặp Người để nói về chuyện của bác sĩ Đỗ Xuân Hợp. Lên gặp Bác ở Bắc Bộ Phủ, bà Thịnh không giấu nổi xúc động, khóc nức nở, chỉ nghe lời Người nói: “Thím chỉ biết thương chồng có một đường, Bác đây tơ vò trăm mối. Chú Hợp hiền lành, Bác thương, Bác phải lo gỡ cho chú ra. Nhưng lo ngại hơn là đối với Quốc tế. Bước chân về Hải Phòng, Bác biết ngay là chú bị bắt. Báo chí ngoại quốc đăng ầm lên là Việt Minh lừa đảo, làm tem giả, lại vô nhân đạo bắt bác sĩ Hợp là một nhà trí thức có tên tuổi và hiền lành! Làm sao có thể tin Việt Minh được? Có thể quan hệ giao dịch với Việt Nam được? Bắt chú Hợp là thất sách. Các chú ở nhà đã làm sai. Bác xin thím ba hôm để sửa sai. Thím cứ yên trí. Hết ba hôm chú Hợp sẽ ra”[5].
Đại tá Đỗ Xuân Hợp (thứ 3 từ trái qua phải) cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các vị tướng lĩnh, 1970
Như cởi được tấm lòng, giải tỏa được bức xúc bấy lâu nay, bà Thịnh trở về nhà và chờ hết ba ngày để đón bác sĩ Đỗ Xuân Hợp ra khỏi nhà tù. Nhưng hết ba hôm, bà vẫn không thấy chồng về, bà lại lên gặp Bác Hồ, nhưng lần trước là Bác cho gọi, còn lần này thì không. Bà viết lại về sự kiện này một cách rất chi tiết như sau: “Vào cửa trước không được, tôi sang bên Nội vụ, ở ngay bên cạnh, đến thẳng thường trực, xin mảnh giấy viết mấy câu như sau: “Bác bảo cho ba hôm, hết ba hôm rồi, sao nhà cháu chưa ra, cháu trả hết công việc Bác đấy, cháu không làm nữa đâu, Bác có cho cháu lên gặp Bác thì cho”. Gập mảnh giấy làm tư đưa cho một cụ già hiền hậu ngồi với mấy anh trực ban ở đấy, tôi nói dối là Bác Hồ giao cho tôi công tác, phải báo cáo ngay, cụ làm ơn mang lên hộ. Cầm giấy đi ngay, lúc trở về cụ bảo: “Chị viết gì ở trong giấy thế mà Bác vừa xem vừa cười. Bác bảo mời chị lên ngay”. Rồi cụ chỉ một cái cầu thang nhỏ cho tôi lên. Hết thang vào đến ngay phòng Bác. Không đợi tôi nói, Bác bảo: “Bác chưa sai hẹn với ai bao giờ, lần này Bác đã sai hẹn. Trong ba ngày vừa qua, Bác luôn nghĩ mà chưa ra được mưu kế gì. Cứu chú Hợp đã đành, nhưng không nói với tất cả được là chú đã bị bắt sai, cho nên khó. Thôi cho Bác thêm ngày nữa. Thế nào cũng ra. Lần này nhất định phải tìm ra, không sai hẹn nữa đâu”[6].
Thêm một lần nữa, bà Thịnh lại trở về nhà chờ đợi nhưng hết một ngày cũng chưa thấy bác sĩ Đỗ Xuân Hợp được thả. Bà Thịnh lại lên đòi gặp Bác Hồ, lần này bà lên thẳng cửa chính của Bắc Bộ Phủ. Nhưng “Ở chân thang lên gác có hai đồng chí thanh niên bồng súng, lưỡi lê trần bóng loáng đứng trực. Tôi bảo với các đồng chí là có việc cần cho tôi lên. Hỏi giấy tôi không có. Hai đồng chí vội vắt chéo hai đầu súng vào nhau giữ tôi lại. Tôi cứ hẩy dần cả hai anh lên từng bậc một để trèo lên. Vừa lên, tôi vừa la: Khi Bác giao công tác thì Bác bảo cần Bác giúp đỡ, muốn lên lúc nào thì lên. Bây giờ cháu lên thì người ta không cho cháu lên…. Tự nhiên tôi nghe rõ thấy tiếng Bác hỏi: “Cái gì đấy?”. Thế rồi anh Vũ Đình Huỳnh, Vụ trưởng Vụ Lễ tân ra bảo: “Các chú làm gì thế? Bác bảo để cho chị lên”. Vừa trông thấy tôi Bác bảo: Gì nữa thế? Chú Hợp về chưa? – Thưa Bác, chưa ạ. – Lạ nhỉ? Bác nói rồi chạy ra bàn điện thoại, đưa cho tôi một đầu giây, rồi cầm lấy ống nghe Bác gọi sang Tòa án: “Chú Ba đâu?” Có tiếng bên kia trả lời, Người tiếp: “Tại sao đến giờ này mà chú Hợp vẫn chưa được ra? Thím ấy đang ở đây kiện Bác đấy” – Thưa Bác, tại anh Vũ Văn Cẩn đi Thái Nguyên chưa về ạ. Chúng cháu cho người trực sẵn, anh Cẩn[7] về ký là anh Hợp ra ngay”. – Lệnh cho chú là chú Cẩn về phút trước thì phút sau chú Hợp ra ngay nhé”[8].
Sáng hôm sau, ngày 30-11-1946 (tức ngày 7-11 âm lịch năm Bính Tuất) bác sĩ Đỗ Xuân Hợp được ra tù và trở về đoàn tụ với gia đình. Theo như cuốn hồi ký và diễn biến câu chuyện thì Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã tìm cách để đưa bác sĩ Đỗ Xuân Hợp ra khỏi nhà tù Hỏa Lò. Điều này được bà Thịnh giải thích rất rõ khi Bác Hồ nói với bà về lý do Người tìm cách thả bác sĩ Đỗ Xuân Hợp: “Bác đã nghĩ ra, cho chú Hợp tòng quân, trông nom sức khỏe cho quân đội”.
Sau khi ra khỏi nhà tù Hỏa Lò, bác sĩ Đỗ Xuân Hợp ngay lập tức được Cục trưởng Cục Quân y Vũ Văn Cẩn ký giấy tòng quân. Ông được phân công về làm Viện trưởng Quân y Viện Việt Trì (1947), sau đó lên Quế Trạo (Bắc Giang) thì đổi thành Quân y Viện Liên khu 10.
Bước ngoặt cuộc đời GS Đỗ Xuân Hợp chính là sự việc làm ông phải ở tù Hỏa Lò. Có thể nói, việc ở tù là một tai họa nhưng cũng là một may mắn với ông, bởi ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm cách cứu giúp và cũng là người chỉ đường, định hướng để ông vào phục vụ trong quân ngũ. Từ đó trở đi, ông đã có 40 năm hoạt động trong quân đội (1946-1985), có nhiều đóng góp vào khoa học cũng như giảng dạy, đào tạo trong ngành Quân y, cũng như trong Y học Việt Nam.
Nguyễn Thanh Hóa
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam