“Tiếng nói cuối cùng” phục vụ người sống, hữu ích cho khoa học

Nói về việc mổ tử thi để phục vụ trong nghiên cứu, khám chữa bệnh và giảng dạy ắt hẳn những lớp học trò và đồng nghiệp không thể phủ nhận những đóng góp của GS Đặng Văn Chung, thông qua việc mổ tử thi, cả về lý thuyết và thực hành. Tầm quan trọng của việc mổ tử thi được GS Chung nhận thức khi còn là sinh viên trường Đại học Y Dược Hà Nội. Thời kỳ đó ông đã cùng thầy giáo người Pháp Blondel, trực tiếp tham gia nhiều ca mổ xác và qua đối chiếu với việc chẩn đoán của các bác sỹ, ông đã rút ra được nhiều bài học bổ ích. Phát huy những gì đã học được khi ra trường, thầy giáo Đặng Văn Chung đã nghiên cứu và truyền lại cho nhiều thế hệ sinh viên.

Năm 1952, sau khi học Thạc sỹ ở Pháp, GS Đặng Văn Chung về nước làm công tác giảng dạy tại trường Đại học Y Dược Hà Nội và khám chữa bệnh ở Bệnh viện Bạch Mai. Thời gian này các máy móc, phương tiện không có nhiều, chủ yếu khám lâm sàng là chính: quan sát, sờ, gõ, nghe, thăm khám…Tuy nhiên nếu chỉ khám lâm sàng thì cũng không thể nhận biết, chẩn đoán bệnh một cách chính xác, vì vậy khó tránh khỏi những trường hợp chẩn đoán sai. Nguy hiểm nhất là sai nhưng không biết mình sai. Và việc mổ tử thi giúp các bác sỹ lâm sàng biết được mình đã sai chỗ nào. “Những đồng nghiệp và học trò của tôi đều biết sự ích lợi của việc mổ tử thi chỉ để nhận định tương đối về nguyên nhân chết của bệnh nhân mà mình săn sóc điều trị, để biết được sự sai lệnh trong chẩn đoán bằng phương pháp hiện có”1 . Để tìm hiểu rõ căn nguyên gây ra tử vong, qua đó trau dồi kiến thức về lâm sàng, GS Đặng Văn Chung đã thực hiện mổ hàng ngàn tử thi. Mỗi trường hợp mổ như vậy là một ẩn số đa dạng và phong phú được ông giải đáp. Và học trò Phạm Gia Khải đã gọi ông là người “phiên dịch” cho những xác chết.

Việc mổ tử thi để giảng dạy, nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả khám chữa bệnh được GS Đặng Văn Chung tiến hành thường xuyên từ năm 1954 đến 1980, cả mổ toàn bộ tử thi và mổ cục bộ.

Lớp học trò Y khoa khoá 1954-1960 kể lại việc học qua mổ tử thi do GS Chung hướng dẫn: “Khi học về giải phẫu, khoá chúng tôi may mắn có được nhiều xác để thực hiện việc mổ tử thi (phần lớn là xác của những người vô thừa nhận hay những đứa trẻ bị tử vong sau sinh mà gia đình bỏ lại). Ban đầu việc mổ xác chỉ nhằm xác định các bộ phận trong cơ thể nhưng sau này khi đã là bác sĩ thì việc mổ xác đó rất có ý nghĩa. Những khóa học sau này không có được điều kiện này, phần lớn chỉ được xem, quan sát xác đã mổ hoặc tiến hành trên mô hình…"2. Những trường hợp khác đều được gia đình hoặc bản thân bệnh nhân ký giấy cho phép bác sỹ mổ tử thi sau khi chết để nghiên cứu và giảng dạy.

GS Đặng Văn Chung (ngồi) cùng các thế hệ học trò

Với GS Đặng Văn Chung, ngay sau khi bệnh nhân tử vong mà được phép mổ, ông đều yêu cầu sinh viên có mặt xem mổ tử thi, ghi chép lại và sáng hôm sau phải báo cáo lại cho ông. Ví dụ có bệnh nhân được chẩn đoán là ung thư gan, nhưng khi mổ tử thi thì không phải là ung thư gan, vậy thì dấu hiệu để đưa ra kết luận chẩn đoán sai là vì sao, như thế nào? thì các bác sĩ hoặc sinh viên phải mô tả lại và hôm sau báo cáo tại Giao ban trên Hội trường. Công việc báo cáo này được thực hiện hàng ngày từ 6h30 đến 8h30 sáng.

Chính việc gắn khám chữa bệnh với thực hành nghề nghiệp trong nhiều năm như thế đã mang lại hiệu quả đào tạo rất tốt.

Khi có trường hợp cấp bách cần kết quả để biết được nguyên nhân cái chết, GS Đặng Văn Chung đã không kể thời gian, điều kiện, thậm chí một mình tranh thủ thực hiện mổ tử thi. Dường như với ông khi chưa tìm được ngọn ngành của vấn đề thì ông luôn đau đáu và quyết thực hiện cho bằng được. Có một trường hợp ông đã tranh thủ thực hiện mổ tử thi ngay trong đêm. Và đây cũng là câu chuyện nghề nghiệp khiến ông nhớ mãi. Ông đã gọi sự cố nghề nghiệp này một cách hài hước: "Tử thi bạt tai tôi lúc đang mổ xác". Đêm hôm đó, trời đã khuya và lại có mưa nhưng GS Chung vẫn quyết định thực hiện mổ xác. Ông không để sáng hôm sau mới thực hiện vì đây là một ca quan trọng cần phải nhận xét ngay vào sáng hôm sau. Không người phụ tá, ông thay quần áo và xuống nhà xác cách chỗ sinh viên nội trú ở khoảng 50m để mổ. Ông đã nắm chắc về bệnh nhân tử vong và thông thuộc nhà xác nên ông không mất nhiều thời gian trong việc tìm xác chết. Vì thực hiện một mình nên ông phải tự chuẩn bị những công việc cần thiết như: đưa xác lên bàn mổ, chuẩn bị dụng cụ mổ(dụng cụ được ông để trên bụng người chết để thuận tiện trong quá trình mổ). Để gần hơn với tử thi nên GS Chung đã kéo tay (tay của người chết lúc này đã cứng) của người chết ra để tiến hành mổ và khi đang mổ bất chợt, tay tử thi đã bật lại tát vào mặt ông khiến ông rất bất ngờ, có phần hốt hoảng. Rất tiếc trong câu chuyện "Tử thi bạt tai tôi lúc đang mổ xác" GS Đặng Văn Chung không giải thích gì thêm, nhưng đồng nghiệp – học trò của ông – PGS.TS Nguyễn Khắc Hiền đã phán đoán rằng có thể do GS Chung đã mổ vào phần cơ nên tay của tử thi mới bị giật như thế. Đó là một kỷ niệm trong cuộc đời nghiên cứu chữa bệnh và giảng dạy của GS Đặng Văn Chung, và thể hiện một điều: dường như dù có khó khăn, trở ngại thì việc mổ tử thi vẫn luôn được ông chú trọng và quan tâm, bởi theo ông, kết quả mổ tử thi chính là “lời nói cuối cùng” của xác chết. Người mổ tử thi chính là người tìm và đưa ra kết quả đó, và cũng như là người “phiên dịch” cho tử thi vậy.

 

 Nguyễn Thị Phương Thúy (Tổng hợp)

_______________________

1 Hồi ký “Bệnh nhân ký giấy phép mổ tử thi mình sau khi chết để nghiên cứu và giảng dạy”

2 Phỏng vấn GS.TS Trần Ngọc Ân 20-2-2012.