Luôn hướng tới sự tìm tòi và sáng tạo. Kỳ II: Một sáng kiến trong phẫu thuật kết xương

Từ một đề tài Nghiên cứu sinh…

Tháng 1-1960, BS Nguyễn Văn Nhân bảo vệ thành công Luận án Phó Tiến sĩ với Đề tài "Điều trị Không liền xương-Khớp giả-Mất đoạn xương cẳng chân bằng phương pháp phẫu thuật" tại Viện Chấn thương Chỉnh hình Trung ương Liên Xô (viết tắt là SITO). Đây là đề tài mà Bác sĩ Nguyễn Văn Nhân say mê từ khi làm thực tập sinh. Trong quá trình thực hiện đề tài này, ông đã sáng tạo ra một dụng cụ nâng xương bảo vệ phần mềm dùng trong phẫu thuật kết xương, ghép xương ở cẳng chân. Ông nhớ lại: Tại thời điểm ấy tôi được biết phương pháp chủ đạo để điều trị khớp giả, mất đoạn xương chày của Viện Chấn thương Chỉnh hình Trung ương Liên Xô là phương pháp ghép xương Albee, một phương pháp mang tên nhà phẫu thuật chỉnh hình rất nổi tiếng người Mỹ Fred Houdlette Albee. “Phương pháp này có lợi là khai thác được dễ dàng mảnh xương ghép tại chỗ, ở mặt trước-trong rộng phẳng của xương chày (bằng đục hoặc cưa đĩa) mà không phải lấy xương ghép ở nơi nào khác…và không đòi hỏi phương tiện cố định nào ngoài bó bột. Mặt khác, kỹ thuật này gọn nhẹ, đơn giản không cần phương tiện kết xương bên trong, đã áp dụng nhiều năm tại SITO và được đánh giá tốt”[1]. Vì vậy, khi thực hiện đề tài, tôi đã tìm hiểu rất kỹ về phương pháp ghép xương kiểu Albee.


Bản viết tay “Nguồn gốc ý tưởng cần nghiên cứu một mẫu nâng xương cho phẫu thuật kết xương ghép xương ở cẳng chân"

Thông qua các tài liệu y văn của Liên Xô và quốc tế, đối chiếu, phân tích tư liệu của Viện SITO, Nghiên cứu sinh Nguyễn Văn Nhân tìm hiểu sâu hơn về phương pháp Albee và phát hiện nhược điểm của phương pháp này:

Thứ nhất: Đường rạch ra qua mặt trước-trong cẳng chân, trong hầu hết các trường hợp khớp giả, mất đoạn xương chày mặt da bị rối loạn dinh dưỡng, xơ sẹo, dính sát xương, thời gian liền sẹo kéo dài có trường hợp biến chứng hoại tử sẹo làm lộ mặt xương[1].

Thứ hai: Mảnh ghép theo phương pháp Albee xẻ trên mặt trước-trong xương chày và nằm ngay dưới lớp da bệnh lý-đây là môi trường không lý tưởng cho miếng ghép diễn biến và phát triển[2].

 Tham khảo một số tài liệu khác, ông thấy nhiều nhà y học khi can thiệp vào xương chày thì họ lựa chọn các đường rạch da ở mặt trước-ngoài cẳng chân để vào xương và sử dụng mặt trước-ngoài xương chày, hoặc sử dụng đường rạch da mặt sau-trong cẳng chân để vào xương và sử dụng mặt sau xương chày. Sự lựa chọn này giúp xương chày khỏi chấn thương, khắc phục được sự rối loạn nuôi dưỡng, không bị viêm rò… trong quá trình nhiễm khuẩn của ổ gãy xương chày, lại được các khối cơ dày bảo vệ và nuôi dưỡng tốt. Với đặc điểm giải phẫu và sinh lý này các mặt xương nói trên là vị trí thuận lợi cho phẫu thuật kết ghép xương điều trị khớp giả, mất đoạn xương chày.

Tuy nhiên, lại một lần nữa NCS Nguyễn Văn Nhân nhận ra trong quá trình phẫu thuật chính các khối cơ dày để bảo vệ và nuôi dưỡng này sẽ gây trở ngại cho thao tác kỹ thuật kết ghép xương, khi cưa xẻ xương lấy xương ghép, đặt nẹp, bắt vít. Mà tại thời điểm đó để banh tách, nâng kéo các đầu xương gãy ở các buồng mổ chỉ có dụng cụ nâng xương nhỏ hẹp, kiểu dáng không thích hợp.

Một câu hỏi được đặt ra trong đầu vị bác sĩ trẻ tuổi lúc này là làm sao “tận dụng được những điều kiện sinh lý lý tưởng trong phẫu thuật kết ghép xương điều trị khớp giả, mất đoạn xương chày qua can thiệp vào các thành sau hoặc thành trước ngoài xương chày…vừa phải banh tách được rộng các đoạn xương và bảo vệ được các khối cơ to khỏe ở các mặt xương nói trên”[3].

….Và sự ra đời của dụng cụ nâng xương

Bác sĩ Nguyễn Văn Nhân nhận thấy rằng dụng cụ nâng xương hẹp bản hoặc hình bầu dục…có kích thước hẹp ngang sẽ tạo nên khe hở làm thân cơ bị đè ép căng phồng và phòi lên ở những khe hở. Từ thực tế này một ý tưởng chế tạo dụng cụ nâng xương mới đã lóe sáng trong suy nghĩ của ông về một mẫu nâng xương có bề ngang rộng hình chữ nhật khi áp sát nhau chúng không tạo ra khe hở vì vậy thân cơ sẽ không bị phồng lên. Điều này giúp cho phẫu thuật không bị trở ngại và các thân cơ được che chắn kín.

Bộ Dụng cụ được sử dụng nâng xương trong phẫu thuật

Ông nhận định: Dụng cụ nâng xương này nếu kết hợp với việc đặt chi mổ ở tư thế thích hợp làm trùng dãn các thân cơ khi banh tách, đè nén thì có khả năng khống chế hoàn toàn các thân cơ bị căng phồng.

Để chứng minh cho nhận định này, tại Viện SITO, khi thử nghiệm trên tử thi, ông đã dùng 2 miếng nhôm cứng rộng bản gấp 3-4 lần các kiểu banh xương thông thường và thấy việc banh tách và bảo vệ các vạt cơ được dễ dàng và hiệu quả hơn trước nhiều.

Sau khi lựa chọn phương pháp phẫu thuật và dụng cụ nâng xương phù hợp và hiệu quả, ông phối hợp với Xưởng Cơ khí sửa chữa và Nghiên cứu sản xuất dụng cụ phẫu thuật của Viện SITO để thiết kế và sản xuất thử mẫu nâng xương này. Sau nhiều lần thay đổi sửa chữa, một mẫu dụng cụ nâng xương mới ra đời, dụng cụ này “được làm bằng thép không gỉ dày 15mm, có bề rộng 8x6cm, hình chữ nhật, một đầu có móc cong (3x2cm), một đầu là tay cầm dài 12x3cm, tray cầm và thân dụng cụ tạo một góc 150 độ. Thân dụng cụ rộng và hình chữ nhật, banh tách và che chắn an toàn cho mô cơ trên suốt trường mổ, tay cầm bẻ góc 150 độ làm tay người phụ mổ tách xa trường mổ, tăng độ an toàn, thoải mái” [4]. Dụng cụ ra đời đã được sử dụng thử nghiệm tại SITO. Cuộc thử nghiệm thành công cho những trường hợp không liền xương, khớp giả, mất đoạn xuơng ở cẳng chân. Hội đồng nghiên cứu sáng kiến cải tiến của Viện SITO nhận xét: “Mẫu dụng cụ mới thực sự có tác dụng tốt: bảo đảm an toàn cho cuộc mổ và tạo điều kiện thuận tiện cho phẫu thuật viên”. Và dụng cụ nâng xương này được đưa vào sử dụng ở SITO từ năm 1958.

Tháng 3-1960, Hội đồng xét duyệt sáng kiến-phát minh trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã công nhận Mẫu dụng cụ nâng xương là một cải tiến mới và cấp bằng sáng chế, công nhận quyền tác giả cho Phó Tiến sĩ Nguyễn Văn Nhân. Và năm 1962 dụng cụ này được phép sản xuất hàng loạt, đồng thời xếp vào danh mục “Dụng cụ y tế xuất khẩu của Liên Xô”. Năm 1962 Liên Xô sản xuất 59 chiếc, năm 1963: 661 chiếc, năm 1964: 240 chiếc, năm 1965: 386 chiếc, năm 1966: 511 chiếc, năm 1967: 900 chiếc[5].

Bằng Chứng nhận quyền tác giả của Bác sĩ Nguyễn Văn Nhân

do Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô cấp năm 1960

Sau khi dụng cụ nâng xương được đưa vào sử dụng ở SITO, Bác sĩ Nguyễn Văn Nhân đã “được phép thực hiện phương pháp phẫu thuật ghép xương kiểu Albbe “cải tiến” ở mặt sau và mặt trước-ngoài xương chày ở Viện SITO”[6]. Chính thực tế này đã được đưa vào phần Mục đích nghiên cứu của Luận án Phó Tiến sĩ “Điều trị Không liền xương-Khớp giả-Mất đoạn xương cẳng chân bằng phương pháp phẫu thuật ” của ông.

Về sáng kiến “Dụng cụ nâng xương và bảo vệ phần mềm dùng trong phẫu thuật kết xương gép xương ở cẳng chân” của BS Nguyễn Văn Nhân được in trong Sách“методические указания по применению новых травматологических и ортопедических аппаратов и инструментов” (Hướng dẫn sử dụng các trang thiết bị-dụng cụ Chấn thương Chỉnh hình mới) của Viện Chấn thương và Chỉnh hình Trung ương Liên Xô, 1962.

Thời gian không ngừng trôi, nhiều điều trong quá khứ có thể bị lãng quên, những tài liệu hiện vật về dụng cụ nâng xương giờ đã cũ, nhòe mực nhưng vẫn còn đó những thông tin quý giá về một sáng kiến cải tiến trong Y học của một con người luôn hướng tới sự tìm tòi và sáng tạo – GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân. Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam luôn trân trọng và gìn giữ những tài liệu hiện vật quý giá của các nhà khoa học, trong đó có bộ Dụng cụ này cho thế hệ mai sau.

Lê Thị Hoài Thu

__________________________

[1], [2], [3], [6]. Bản thảo "Nguồn gốc ý tưởng cần nghiên cứu một mẫu nâng xương cho phẫu thuật kết xương ghép xương ở cẳng chân" của GS.TSKH Nguyễn Văn Nhân.

[4]. Luận án Phó Tiến sĩ "Điều trị Không liền xương-Khớp giả-Mất đoạn xương cẳng chân bằng phương pháp phẫu thuật" của Nghiên cứu sinh Nguyễn Văn Nhân, năm 1960, trang 97.

[5]. Giấy chứng nhận về số lượng dụng cụ đã sản xuất ở Liên Xô do Bộ Y tế Liên Xô cấp, ngày 22-5-1962.