Mười năm chiến đấu bên nước bạn
Khoác lên mình màu xanh áo lính từ năm 16 tuổi, Phạm Đức Dương là chiến sĩ trinh sát ở Trung Đoàn 103 Hà Tĩnh, sau chuyển sang Trung đoàn 280. Năm 1947, ông và cả Trung đoàn hành quân sang Lào với tư cách là quân tình nguyện Việt
Những ngày sống và chiến đấu ở nước bạn, ông đã có dịp được đến nhiều nơi của đất nước Triệu Voi, “Từ rừng núi Khăm Muộn đến cao nguyên Nakai, Xiêng Khoảng, từ đồng bằng Thakhek, Savanakhet ngược dòng sông Mè Khoong lên Viêng Chăn, Luông Phabang…, được tiếp xúc với người Lào Thơng, Lào Xủng, Lào Lùm, được ăn canh măng nấu với Pá Đẹc (Cá mắm), bỏ thêm lá dạ nàng với khẩu bừa (Tấm), được ở nhà sàn, được múa lăm vông theo tiếng trống nhịp nhàng, được en xáo (Tán tỉnh) với các cô gái Lào bằng những câu Xu pha xít (Ngạn ngữ) và hát những bài hát Lăm (Hát) giao duyên của dân tộc Lào trong những dịp vàn na (Đổi công), bun than (Lội hè) hay đơn đông (Leo núi)” [1]…
Trong trái tim của một người chiến sĩ ông vẫn nhớ như in hình ảnh anh chiến sĩ liên quân Lào-Việt đã lấy thân mình che đạn cho Hoàng thân Xuphanuvông trên chiếc Ca nô đang trên đường tạm lánh sang Thái Lan, khi mặt trận Thasfkhek bị vỡ (21 – 3 – 1946). Giáo sư Phạm Đức Dương ghi lại:“Tháng 11, năm 1946 theo lời mời của Bác Hồ, một đội bảo vệ đặc biệt đã dẫn Hoàng thân Xuphanuvông từ Thái Lan qua Nghệ An ra Việt Bắc. Với tôi đây thực sự là một cuộc di chuyển chiến lược căn cứ địa cách mạng Lào từ phía Tây sang phía Đông. Trong chuyến đi lịch sử đấy, một sĩ quan Việt Nam đã bị trọng thương khi đến Mường Mô, tự thấy mình không thể tiếp tục sống và không làm ảnh hưởng đến chuyến di chuyển quan trọng của đoàn, anh đã đề nghị được hi sinh. Ông và các chiến sĩ trong đoàn đã làm lễ truy điệu sống anh trên đồi thông với niềm tiếc thương vô hạn.[2]
Năm 1955, khi ông được lệnh điều động từ Trung Lào ra công tác tại Ban cán sự miền Tây (một vị của Việt Nam giúp Lào) với tên gọi“Biên phòng A1”, đóng tại Na Mèo-biên giới Sầm Nưa. Năm 1957, ông cùng với các đồng chí Dung, Nguyên – là những cán bộ trẻ am hiểu về đất nước Lào được cử đi học ở Trung Quốc để đào tạo thành những chuyên gia giúp bạn sau này [3]. Hôm đó là một ngày đẹp trời ở “Biên phòng A1”, đồng chí Nguyễn Khang – Bí thư Ban cán sự miền Tây cho tổ chức bữa cơm thân mật tiễn ông và các đồng chí trong đoàn với sự có mặt của đồng chí Cayxỏn Phômvihản – Tổng Bí thư Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào cùng đến dự. Đây là điều vô cùng vinh dự đối với ông và các chiến sĩ trong đoàn, trong cuộc gặp, đồng chí Cayxỏn Phômvihản đã hỏi ông và đồng chí Dung, Nguyên sau khi học xong, các đồng chí có trở lại giúp Lào nữa không? Ông và các đồng chí đều đồng thanh trả lời “Nếu được anh cho phép, chúng tôi nhất định sẽ trở lại Lào làm việc” [4], lời hứa đó đã được ông khắc sâu trong tâm khảm và trở thành động lực thúc đẩy ông trong quá trình học tập và nghiên cứu: Từ một chiến sĩ thành một Tiến sĩ.
Luôn mang trong mình những ký ức về một vùng quê với truyền thống khoa bảng, lòng yêu nước và niềm tin vào cách mạng, cùng một tuổi thơ khốn khó nhưng giàu mơ mộng đã thôi thúc ông vừa tự học để củng cố và nâng cao trình độ văn hóa, vừa học thành thạo tiếng Lào và tìm hiểu sâu rộng nền văn hóa nước bạn để khi bước vào con đường khoa học ông đã bắt đầu nghiên cứu tiếng Lào, văn hóa Lào với tư cách – trong một chừng mực nào đó, như một người bản ngữ.
Trở thành một nhà nghiên cứu văn hóa Lào
Rời quân ngũ, Phạm Đức Dương mới tốt nghiệp tiểu học nên việc đi học ở Trung Quốc để trở thành những chuyên gia nghiên cứu để giúp đỡ nước Lào theo dự định của Ban cán sự miền Tây không được thực hiện. Ông được cử về học tại trường Bổ túc Văn hóa Trung ương ở Bạch Mai – Hà Nội, chương trình học được rút lại trong hai năm: 9 tháng học hết cấp II và thêm 9 tháng học hết cấp III với phân ban xã hội: Văn; Sử; Địa.
Tốt nghiệp trường Bổ túc Văn hóa Trung ương, năm 1959 ông thi đậu vào khoa Ngữ văn, trường Đại học Tổng hợp. Năm 1963, ông bảo vệ xuất sắc luận văn tốt nghiệp chuyên ngành Ngôn ngữ học về “Ngữ âm tiếng Lào hiện đại”. Đây có thể xem là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên, mà theo ông: “Đó là mốc đầu tiên đánh dấu việc tôi bước vào con đường nghiên cứu ngôn ngữ học”[5].
Tốt nghiệp Đại học, Phạm Đức Dương được phân công về công tác tại Ban Ngữ âm-Ngôn ngữ dân tộc, Viện Ngôn ngữ học. Sau hơn ba năm làm việc, năm 1967 ông được cử đi thực tập sinh tại Liên Xô. Đây là cơ hội tốt để ông nâng cao trình độ. Vậy nên, trong hai năm làm thực tập sinh, ông miệt mài nghiên cứu và làm bản Luận án như một nghiên cứu sinh. Trong quá trình làm Luận án, một số các thầy giảng dạy ở Viện Phương Đông, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô thấy ông miệt mài học tập, nghiên cứu và chất lượng nghiên cứu đủ điều kiện để làm cho một bản Luận án Phó Tiến sĩ, nên đề xuất phía Việt Nam tạo điều kiện để ông làm luận án. Thêm thời gian một năm ở lại Liên Xô, ông đã bảo vệ thành công Luận án Phó Tiến sĩ Ngôn ngữ học với Đề tài “Hệ thống thanh điệu và thanh phổ các nguyên âm tiếng Lào hiện đại (tài liệu thực nghiệm)” tại Viện Phương Đông, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô, năm 1970. Về lý do chọn nghiên cứu về Lào, ông giải thích: “Tiếng Việt cũng đã có nhiều người nghiên cứu. Lào là một người anh em ở ngay bên cạnh nước mình nhưng không có nhiều nghiên cứu để có những hiểu biết về đối tác quan trọng này. Mà muốn hiểu biết về văn hóa, con người, đất nước họ thì trước hết phải hiểu ngôn ngữ của họ. Hơn nữa, gần 10 năm sống trên đất Lào là một thế mạnh của mình nên chọn nghiên cứu về ngôn ngữ Lào là một cách để thể hiện những vốn mạnh của mình có” [6].
GS.TS Phạm Đức Dương (hàng sau bên trái) cùng những người bạn trong thời gian đi thực tập sinh tại Liên Xô
Chính nhờ những khoảng thời gian chung sống với người Cọi ở Maca, người Xẹc ở Bản Tơng, bản Bức, bản Nameo, Tà xéng, Bualapha (tỉnh Khăm Muộn)… trong thời kháng chiến (1949) ở Lào, mà sau này khi nghiên cứu các ngôn ngữ Mày, Rục, Rách, Arem, Mã liềng, Poong… ở miền Tây các tỉnh Quảng Bình, Hà Tĩnh, Nghệ An – nơi tiếp giáp với vùng Khăm Muộn, Căm Cợt… mà ông đã dựng lại được ngôn ngữ tiền Việt Mường, từ đó mở rộng việc nghiên cứu, đi sâu vào tìm hiểu văn hóa người Việt và mối quan hệ giữa các nước Đông Nam Á trong tiến trình lịch sử. GS Phạm Đức Dương còn chủ nhiệm nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực văn hóa, ngôn ngữ: Từ điển Thái – Việt, năm 1990, Từ điển Inđônêxia – Việt, 1998, Từ điển Lào – Việt, 1995, Tiếp xúc ngôn ngữ ở Đông Nam Á, 1983 (viết chung với PGS Phan Ngọc) cùng nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa.
Năm 1973, khi tham gia xây dựng Ban Đông Á (Tiền thân của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á ngày nay) theo hướng khu vực học và đất nước học, GS.TS Phạm Đức Dương lại có dịp nghiên cứu về ngôn ngữ và văn hóa Lào. Tất cả các bài viết về văn hóa Lào đã được ông tập hợp trong một công trình có nhan đề “Ngôn ngữ và văn hóa Lào trong bối cảnh Đông Nam Á”, (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998), trong đó có các bài nghiên cứu mang tính khái quát: “Nửa thế kỷ tiếp cận với văn hóa Lào; Từ cảm nhận đến thức nhận; Bức tranh ngôn ngữ dân tộc ở Lào; Xây dựng ngôn ngữ chung và nền văn hóa đa dạng; Tín ngưỡng dân gian và tôn giáo ở Lào; Lễ hội truyền thống và văn nghệ dân gian Lào; Những đặc trưng âm học và sự cảm thụ hệ thống thanh điệu tiếng Lào; Thanh phổ các nguyên âm đơn tiếng Lào hiện đại (đó là nội dung của Luận án Phó Tiến sĩ mà ông đã bảo vệ tại Mátxcơva, 1970); Giải mã truyện cổ Lào; Người Hmông: Ngôn ngữ và văn hóa; các cứ liệu ngôn ngữ về mối quan hệ thân tộc giữa các tộc người thuộc nhóm Tạng Miến ở Bắc Đông Dương; Mối quan hệ sâu sắc giữa ngôn ngữ và văn hóa Lào và Việt Nam v.v.” [7]. Đây là một trong những công trình nghiên cứu quan trọng trong nghiên cứu về văn hóa Lào của GS Phạm Đức Dương.
Trong nghiên cứu về Lào, hai đóng góp quan trọng của GS Phạm Đức Dương là thứ nhất, đưa ra những nhận thức mới về văn hóa, ngôn ngữ, con người Lào vào bối cảnh Đông Nam Á để hiểu hơn về dân tộc và con người Lào trong lịch sử. Thứ hai, những nghiên cứu của ông về Lào là nhằm từ nhận thức khoa học có thể giải mã tâm thức của người Lào.
Chính những cống hiến không ngừng nghỉ cho khoa học trong nghiên cứu về Văn hóa Lào là một phần quan trọng giúp GS.TS Phạm Đức Dương trở thành một chuyên gia đầu ngành về Ngôn ngữ dân tộc và Đông Nam Á học ở Việt Nam.
Nguyễn Thúy Tiềm
_______________________
[1]; [3]; [4] Bài viết "Quan hệ đặc biệt Việt-Lào, Lào-Việt từ cảm nhận đến nhận thức" của GS.TS Phạm Đức Dương.[2]: Bài viết “Hồ Chí Minh với các nước láng giềng (Nhìn từ góc độ văn hóa) của GS.TS Phạm Đức Dương.
[5]; [6]: Phỏng vấn GS.TS Phạm Đức Dương, ngày 17 – 9 – 2009, bản bóc băng.
[7]: Bài viết “Ngôn ngữ, văn hóa Lào và tình cảm sâu nặng của các bạn Lào đã dẫn dắt tôi đi vào nghiên cứu khoa học” của GS.TS Phạm Đức Dương.