Người tiên phong trong nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian
Tín ngưỡng dân gian là một thành tố quan trọng trong nền văn hóa Việt
Trước Nguyễn Văn Huyên đã có những người tìm hiểu về tín ngưỡng dân gian. Với những nghiên cứu về các vị thần bất tử, về lễ hội dân gian GS Nguyễn Văn Huyên đã đặt ra những vấn đề phải xem đó là những yếu tố văn hóa trong nền văn hóa Việt
Khi đọc các công trình của GS Nguyễn Văn Huyên, GS Ngô Đức Thịnh đã tìm được sự đồng cảm trong đó. Ông nói: Có nhiều ý tưởng tôi đặt ra khi tìm hiểu về tín ngưỡng dân gian nhưng khi tôi đọc Nguyễn Văn Huyên thì thấy Cụ đã nói đến và đưa ra những kiến giải lý thú. Điều đó làm mình tin tưởng hơn để đi sâu nghiên cứu. Chính GS Nguyễn Văn Huyên đã nghiên cứu tín ngưỡng dân gian một cách khoa học, thái độ trân trọng. Có thể nói Nguyễn Văn Huyên đã tiếp thu tinh thần xã hội học Pháp một cách khách quan, nghiêm túc như Durant – một nhà nghiên cứu người Pháp ở Viện Viễn đông Bác Cổ đã nghiên cứu tín ngưỡng ở Đông Dương trước đây.
GS.TS Ngô Đức Thịnh đọc lại những trang viết của ông về GS.TS Nguyễn Văn Huyên (4-2013)
Vận dụng phương pháp mới vào nghiên cứu tín ngưỡng dân gian.
Cũng trong quá trình nghiên cứu của mình, GS Ngô Đức Thịnh nhận thấy GS Nguyễn Văn Huyên để lại nhiều dấn ấn sâu sắc trong nghiên cứu văn hóa dân gian. Trong số khoảng 45 công trình nghiên cứu của GS Huyên thì có khoảng 20 công trình nghiên cứu về văn hóa dân gian, chủ yếu là tín ngưỡng dân gian. Thật khó để nói Nguyễn Văn Huyên là nhà dân tộc học, hay nhà nghiên cứu văn hóa dân gian… nhưng có thể khẳng định những đóng góp của GS Nguyễn Văn Huyên cho nền khoa học xã hội Việt
Trước hết, đó là sự nhìn nhận đối tượng nghiên cứu một cách khoa học, không cứng nhắc đem những ý kiến chủ quan của mình vào nghiên cứu. Chính với thái độ đúng đắn ấy mà trước và sau Nguyễn Văn Huyên không có nhiều tác giả nghiên cứu sâu sắc về tín ngưỡng dân gian. Đây là một bài học lớn cho GS Ngô Đức Thịnh và các đồng nghiệp: “Khi bắt tay vào nghiên cứu tín ngưỡng dân gian, tôi và đồng nghiệp chỉ muốn lý giải nguồn gốc văn hóa, xã hội của tín ngưỡng dân gian. Nhưng gặp rất nhiều khó khăn vì Nhà nước thì coi là mê tín dị đoan, giới khoa học thì coi thường, không xem đó là những vấn đề cần nghiên cứu trong văn hóa nên không nhận được sự ủng hộ. Thậm chí còn có ý kiến coi công việc của chúng tôi sẽ làm trỗi dậy mê tín dị đoan. Nhưng khi chúng tôi đọc các công trình của GS Nguyễn Văn Huyên, chúng tôi tìm được sự đồng cảm và chia sẻ từ người đi trước nên tin tưởng hơn vào ý tưởng của mình”.
Thứ hai, phương pháp nghiên cứu của GS Nguyễn Văn Huyên có ảnh hưởng đến giới khoa học xã hội Việt Nam sau này như GS Ngô Đức Thịnh và nhiều nhà khoa học khác: “Khi đọc các công trình nghiên cứu của GS Nguyễn Văn Huyên, tôi học được phương pháp phân tích tổng thể, nhìn mọi sự kiện, vấn đề trong tổng thể chứ không biệt lập, dù là một vấn đề nhỏ cũng phải đặt nó trong một tổng thể để hiểu rõ hơn. Khi nghiên cứu vấn đề tín ngưỡng cũng phải đặt nó vào trong bối cảnh xã hội của nó. Tại sao tín ngưỡng bị coi là mê tín dị đoan và bị cấm nhưng cấm mãi vẫn không được. Phải có nguyên do xã hội, văn hóa thì nó mới tồn tại lâu như vậy. Vậy nên phải nhìn tổng thể để tìm hiểu các vấn đề”.
Một đóng góp quan trọng nữa của GS Nguyễn Văn Huyên là đưa phương pháp điền dã nhân học phương Tây vào nghiên cứu khoa học xã hội. Theo GS Ngô Đức Thịnh thì GS Nguyễn Văn Huyên vận dụng phương pháp điền dã nhân học rất mẫu mực. “Khi đọc nghiên cứu của GS Nguyễn Văn Huyên về Hội Gióng, tôi thấy dù không được theo ông đi thực địa nhưng qua đọc các công trình của Nguyễn Văn Huyên, tôi thấy Cụ phải đi thực địa rất nhiều và có phương pháp khoa học mới có được những tư liệu đó. Đó là những quan sát tinh tế, mô tả và giải thích thú vị. Các công trình khoa học của Cụ đầy tư liệu thực địa và có giá trị cao”.
Điền dã nhân học như một phương pháp khoa học, trước đây ít người vận dụng trong nghiên cứu khoa học xã hội ở nước ta. Dân tộc học là học dân. Tuy nhiên, có những nhà nghiên cứu đến gặp dân thì nghĩ mình là thầy dạy cho người dân chứ không phải về tìm hiểu từ người dân. Có những người học Tây học về rồi coi thường những giá trị văn hóa truyền thống. Những quan điểm nghiên cứu đó theo GS Ngô Đức Thịnh là không hợp lý. Chính GS Nguyễn Văn Huyên đã đưa phương pháp Nhân học Pháp vào nghiên cứu tín ngưỡng dân gian một cách khoa học, có sự đồng cảm, đặt mình vào vị trí của người chủ thể văn hóa, nghe và tổng hợp những tri thức từ người dân. Đó là bài học lớn cho GS Ngô Đức Thịnh khi đọc các nghiên cứu của GS Nguyễn Văn Huyên: “Nghiên cứu văn hóa thì phải tiếp xúc với con người đã tạo ra văn hóa đó. Phải đi thực địa và cảm nhận từ thực địa, tổng hợp tư liệu để nghiên cứu”.
Sau nhiều năm nghiên cứu về tín ngưỡng dân gian và có nhiều thành tựu được công nhận đã tạo nên tên tuổi của GS Ngô Đức Thịnh trong giới khoa học. Một trong những “bí quyết” thành công mà như ông chia sẻ là khai thác những di sản khoa học của các nhà nghiên cứu đi trước mà GS Nguyễn Văn Huyên là một ví dụ điển hình: “GS Nguyễn Văn Huyên và cả các nhà khoa học thế hệ trước đã để lại cho dân tộc một di sản khoa học lớn. Các thế hệ sau nếu biết cách khai thác và vận dụng hợp lý thì những di sản đó vẫn còn rất có ý nghĩa cho đất nước. Còn nếu không làm được điều đó, thì đó là một sự lãng phí, một tổn thất lớn của dân tộc”. Đó vừa là một kinh nghiệm và cũng là một lời khuyên mà GS Ngô Đức Thịnh chia sẻ.
Bùi Minh Hào
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam