Những nghiên cứu vượt thời gian

            Lời  dạy của thầy

Năm 1945 sau khi tốt nghiệp tú tài triết học toàn phần trường Trung học Chu Văn An, cậu học sinh Phạm Văn Phúc thi vào trường Đại học Y Dược Hà Nội (1946-1952) và bắt đầu sự nghiệp vì sức khỏe con người.

Ngay từ khi là sinh viên năm thứ nhất trường Đại học Y Dược Hà Nội, Phạm Văn Phúc được thầy Nguyễn Hữu giao nhiệm vụ theo dõi 5 giường bệnh ở Bệnh viện Yersin. Buổi chiều sau khi học xong ở giảng đường 11 Lê Thánh Tông, ông đến ngay bệnh viện để thăm khám các bệnh nhân. Tại đây Phạm Văn Phúc đã gặp và được GS Tôn Thất Tùng cho phép đi thăm khám bệnh nhân cùng ông. Giáo sư Tùng đã dạy ông phải học những kiến thức cơ bản mang tính hàn lâm và kinh điển sau đó mới tiếp thu được những kiến thức mới. Phạm Văn Phúc luôn ghi nhớ về những lời dặn đó.

Là sinh viên học về Ngoại khoa, Phạm Văn Phúc từng được GS Tùng dạy rằng “Người phẫu thuật viên cần có con mắt đại bàng, trái tim sư tử, cánh tay thép bọc trong cái găng bằng nhung”. Điều này ông ghi nhớ mãi rồi về sau ông truyền đạt lại cho các thế hệ sinh viên.

Không chỉ định hướng tư duy, GS Tôn Thất Tùng giảng dạy tỉ mỉ về phương pháp khám bệnh như: Cách khám các chi, ngực, phổi, sọ não. Ham hiểu biết và hay đặt ra những câu hỏi có chất lượng chuyên môn nên Phạm Văn Phúc được GS Tùng quý mến, truyền dạy cho nhiều “bí quyết”, vì như Giáo sư vẫn thường nói “Tôi chỉ nhận  là học trò với những ai đã đặt cho tôi những câu hỏi khiến tôi phải suy mới trả lời được”. Ông còn nhớ khi tham gia phục vụ kháng chiến ngoài mặt trận, gặp một trường hợp chữa trị khó, ông đã viết thư cho thầy Tôn Thất Tùng để xin lời chỉ dạy. Sau này, nội dung câu hỏi của ông và câu giải đáp đã được GS Tùng gửi đăng báo. 

Tiếp nối và phát huy

Năm 1956 khi là Trưởng Khoa Phẫu thuật Tiêu hóa ở Bệnh viện Việt – Đức, bác sỹ Phạm Văn Phúc đã tham gia điều trị nhiều bệnh nhân bị bệnh tắc sỏi đường mật. Luôn ghi nhớ những lời dạy của thầy Tôn Thất Tùng trong quá trình thực hành điều trị, nên ông đã phát hiện được sự khác biệt giữa bệnh cảnh lâm sàng với bệnh lý sỏi đường mật ở Âu- Mỹ hoặc Bắc Phi.

Ngay từ năm 1937, GS Tôn Thất Tùng là người đầu tiên nghiên cứu sỏi đường mật ở Việt Nam. Giáo sư đã phát hiện giun đũa, sỏi trong ống mật là nguyên nhân gây bệnh nhiễm khuẩn đường mật và tạo sinh sỏi mật nên ông đã nghiên cứu đặc điểm về sỏi đường mật nhiệt đới của người Việt Nam. Say mê với những nghiên cứu về sỏi đường mật, Bác sỹ Phạm Văn Phúc đã đề đạt mong muốn được thầy Tôn Thất Tùng hướng dẫn theo hướng nghiên cứu đó. Ban đầu ông được GS Tôn Thất Tùng hướng dẫn nghiên cứu, sau đó qua quá trình khám chữa bệnh và nghiên cứu trên hàng nghìn bệnh nhân bị bệnh sỏi đường mật, mổ cấp cứu vì các biến chứng: viêm tụy cấp thể phù do tắc sỏi đường mật vì giun đũa di thực lên đường mật, viêm phúc mao mật…. ông đã thu thập được nhiều số liệu liên quan đến căn bệnh, từ đó đã phát hiện được nhiều vấn đề mới: Đặc điểm giải phẫu bệnh sỏi đường mật và biến chứng của chúng; Sốc nhiễm trùng đường mật. Và ngày 1-3-1973 ông đã báo cáo công trình về Sốc nhiễm trùng đường mật, với tiêu đề “Một số ý kiến về điều trị choáng nội độc tố trong tắc ống mật do sỏi có mủ” tại Hội nghị Ngoại khoa. BS Phạm Văn Phúc là người đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này. 

Giáo sư  Phạm Văn Phúc cùng các đồng nghiệp 

 đang thực hiện ca mổ tại Bệnh viện Xanh Pôn, tháng 7-1971

Ngoài ra ông còn có 9 công trình nghiên cứu về sỏi trong gan và một trong những công trình đó đã báo cáo tại Hội nghị Ngoại khoa Kỷ niệm 90 năm ngày thành lập trường Đại học Y Hà Nội (20-2-1992). Và công trình Nghiên cứu 576 trường hợp mổ sỏi đường mật tại các Bệnh viện Phủ Doãn (1957-1959), Bệnh viện Xanh Pôn (1970-1975), Bệnh viện đa khoa Hậu Giang (1983-1987), Bệnh viện Thanh Nhàn (1986 -1991) là công trình về lâm sàng có giá trị. Trong số những bệnh nhân bị sốc nhiễm trùng đường mật GS Phạm Văn Phúc đặc biệt ấn tượng mới trường hợp của bệnh nhân nữ tên Vân, ngoài 70 tuổi. Bệnh nhân vào Bệnh viện Xanh Pôn với thể trạng rất yếu, sau khi đã được bác sỹ Phúc mổ, gia đình nghĩ rằng không qua khỏi nên đã xin đưa bệnh nhân về nhà để lo hậu sự. Bác sỹ Phúc đã giải thích rõ ràng nên gia đình rất yên tâm. Trải qua một quá trình nghiên cứu từ năm 1956 đến năm 1991 bác sỹ Phạm Văn Phúc tập hợp 20 công trình nghiên cứu về Sỏi đường mật làm luận án Tiến sỹ “Góp phần nghiên cứu điều trị sỏi trong gan”. Để thực hiện bản luận án, ông đã đọc tham khảo rất nhiều nguồn tài liệu từ Nhật, Trung Quốc, Mỹ, kết hợp với thực tế lâm sàng phong phú để hoàn thành luận án. 

Năm 1995  Bác sĩ Phạm Văn Phúc đã bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ. Bản Luận án của ông đã mang lại nhiều ý nghĩa quan trọng trong việc điều trị sỏi đường mật và là tài liệu tham khảo bổ ích cho những nghiên cứu về vấn đề này. Có thể nói, kết quả 40 năm nghiên cứu về sỏi đường mật của GS Phạm Văn Phúc có khởi nguồn từ những nghiên cứu của GS Tôn Thất Tùng và nó đã trở thành những nghiên cứu mang tính ứng dụng cho đến nay vẫn còn giá trị. 

GS.TS Phạm Văn Phúc sinh năm 1924 tại Hải Phòng.

1945: Tốt nghiệp “Baccalauréat” toàn phần Triết học trường Trung học Chu Văn An.

1946-1954: Sinh viên trường Đại học Y Hà Nội (1946-1952); Trưởng Ban Phẫu thuật Đại đoàn 308 (1949); Đội trưởng Đội phẫu thuật Đại đoàn 316 (1950-1954);  Phó Viện trưởng Phân viện Quân y 108 (10-1954). 

1956-1965: Giảng viên Bộ môn Ngoại, trường Đại học Y Hà Nội; Trưởng khoa Phẫu thuật cấp cứu bụng Bệnh viện Việt – Đức. 

1965-1980: Giám đốc Bệnh viện Xanh Pôn Hà Nội.

Từ 1981: Giảng dạy Khoa Y trường Đại học Cần Thơ (1984-1986); Giảng dạy tại Bộ môn Ngoại, trường Đại học Y Hà Nội (1986-1997).

     

 

        Lưu Thị Thúy- Nguyễn Thị Phương Thúy

  Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam