Giở lại tập ảnh đen trắng nằm trong ngăn kéo đã lâu, Giáo sư Nguyễn Văn Ngọ không khỏi xúc động khi hiện ra trước mắt là một tấm ảnh khổ 10×15 còn khá nguyên vẹn, với lời đề tặng viết ngay trên góc phải phía dưới “Kính tặng anh Ngọ để mong một ngày gần đây sẽ gặp nhau nữa”. Câu chuyện đã hơn 60 năm lại hiện về trong trí nhớ của ông. Đây là ảnh gia đình cụ Nguyễn Văn Tú, người đã cưu mang Giáo sư Nguyễn Văn Ngọ năm 1952 khi ông từ chiến trường Thượng Lào về hoạt động tại Thà Bò, Thái Lan để chờ ngày về nước. Trước đó, năm 1950, ông đã được Sở Vô tuyến điện Liên khu 4 cử sang Lào công tác[1] rồi sang Thái Lan. Tại Thái Lan, trong khi chờ phân công nhiệm vụ mới, ông dạy văn hóa cho kiều bào.
Thà Bò là một huyện thuộc tỉnh Nongkhai, huyện lỵ là một thị trấn nhỏ nằm đối diện với thành phố Vientiane ở bờ bên kia sông Mekong. Thoạt đầu, Chi bộ Đảng ở Thà Bò gửi Nguyễn Văn Ngọ ở một làng trồng rau chỉ có người Việt và xa trung tâm huyện, nhằm tránh cảnh sát Thái Lan nhòm ngó. Sau vài tuần nhận thấy trình độ tiếng Lào và hiểu biết về phong tục người bản xứ của ông cũng khá, cấp uỷ địa phương quyết định cho ông “ra công khai”, về sống tại huyện lỵ. Theo ông, như vậy tự nhiên hơn là cứ ở trong làng trồng rau, đêm đêm bà con kiều bào lũ lượt đến thăm và nghe kể chuyện.
Nguyễn Văn Ngọ được bố trí ở nhà cụ Nguyễn Văn Tú, cụ chừng 70 tuổi, người Thái gốc Việt, nhưng còn rất tráng kiện và nhanh nhẹn. Nhà chỉ có 3 người: cụ ông, cụ bà, và cô con gái Y Hoa 16 tuổi. Cụ Tú có uy tín cao trong kiều bào và giới chức Thái Lan tại địa phương, nên Ban đại diện kiều bào tại Thà Bò mời cụ làm Ủy viên đối ngoại. Cụ thạo tiếng Thái, tiếng Lào, tiếng Pháp, nhiệt tình công tác và giỏi giao tiếp, nhưng rất thẳng tính. Thấy Nguyễn Văn Ngọ hiền lành, nho nhã, có trình độ, được cụ Tú dành tình cảm thì Ban đại diện kiều bào phân công cho ông vào ở nhà cụ. Có thể vì hai cụ không có con trai, nên ông nhanh chóng được coi như con trong nhà.
Cụ Tú chẳng bao giờ nói về quá khứ của mình, vì cán bộ kiều bào đều thuộc lứa tuổi con cụ, nên cũng chả ai biết chắc chắn về quãng đời lúc trẻ của cụ. Điều duy nhất khiến họ quý và tin cụ, là khi mặt trận kháng chiến ở Vientiane vừa vỡ, kiều bào ở Vientiane ào ào vượt sông Mekong sang Thà Bò tỵ nạn thì cụ đang sống yên ổn ở một tỉnh gần thủ đô Bangkok đã kéo cả vợ con ra huyện Thà Bò để đón tiếp và giúp đỡ kiều bào. Việt kiều ở Thái Lan rất yêu nước, kể cả những người “Việt cũ”, đã sang ở Thái Lan từ nhiều đời và có quốc tịch Thái. Lớp trẻ trong cộng đồng này nhiều người chưa hề biết đến quê hương Việt Nam và cũng không biết tiếng Việt, nhưng họ không hề tiếc công của, thậm chí cả sinh mạng khi cần phải giúp đỡ cuộc kháng chiến ở nước nhà. Hơn nữa, Thái Lan lấy đạo Phật làm Quốc đạo (95% dân số là Phật tử), cho nên chuyện cứu người đang bị hoạn nạn gần như là lẽ sống của họ, chuyện cả gia đình cụ Tú ra miền biên ải xa xôi hẻo lánh để giúp đồng bào tỵ nạn rồi ở lại đồng cam cộng khổ với cộng đồng này được đón nhận một cách tự nhiên.
Cụ bà là người Thái Lan, có khuôn mặt phúc hậu, ăn mặc và sinh hoạt đều giản dị, tuổi đời khoảng 50. Cụ bà không thành thạo về nghề buôn nên cụ ông mở một cửa hàng tạp hóa nho nhỏ, lấy hàng từ Bangkok ra bán lẻ, hai mẹ con thay nhau ngồi bán theo giá cụ ông đã ghi sẵn và vào sổ. Buổi tối cụ ông cộng sổ và kiểm hàng. Từ khi Nguyễn Văn Ngọ đến ở, ông cũng phụ giúp gia đình một tay.
Cán bộ kiều bào làm việc không lương, nhưng cán bộ trong nước sang hoặc thương bệnh binh về dưỡng bệnh lại được đài thọ theo chế độ “hưởng theo nhu cầu”. Ngoài tiền ăn ở do gia đình nhận nuôi chu cấp, còn lại áo quần, khăn mặt, bàn chải, kem đánh răng, kính râm, bút máy do các gia đình khác phân công nhau đem đến cho. Cụ Tú cho biết họ phân công nhau như kiểu các gia đình Thái chia nhau nấu mâm cơm trưa hàng ngày mang lên chùa cho sư. Kiều bào rất chu đáo, tặng áo quần là cho thợ đến đo để may, lại còn mang theo mẫu vải cho chọn. Những lần như thế, Nguyễn Văn Ngọ thường khiêm tốn, chọn thứ rẻ tiền nhất, nhưng bao giờ cụ Tú cũng chọn lại, không phải thứ đắt nhất mà là thứ thông thường thanh niên địa phương hay mặc, còn kiểu thì loại cổ điển. Cụ cũng dặn không bao giờ được mặc cả bộ mới toanh ra đường, quần mới thì phải áo cũ hay ngược lại.
Gọi là Ủy viên đối ngoại, nhưng cụ Tú làm việc như một lãnh sự. Cụ bảo vệ quyền lợi cho cả cộng đồng người Việt ở Thà Bò, mà cũng giúp một số kiều bào làm thủ tục xin kinh doanh buôn bán hay làm dịch vụ trong một số lĩnh vực nào đó (chính quyền Thái lan chỉ cho phép người Việt tỵ nạn làm một số nghề đơn giản). Cụ rất am hiểu luật Thái Lan, và quan hệ rộng, không chỉ với giới quan chức Thái ở hàng huyện mà còn ở hàng tỉnh. Cụ cũng quen biết một số quan chức Lào bên Vientiane, và một số thương gia người Hoa. Rất ít khi cụ có mặt ở nhà được một ngày trọn vẹn. Tuy vậy, bao giờ cụ cũng dành buổi tối cho gia đình. Sau khi ăn tối và cộng sổ, kiểm hàng xong, cụ đọc báo cho cả nhà nghe. Báo viết bằng quốc ngữ của Thái Lan – thứ tiếng được dạy trong tất cả trường học ở cả nước, còn gọi là tiếng Thái Xiêm, hay tiếng Thái Bangkok. Tỉnh Nongkhai thuộc vùng Đông Bắc Thái Lan, khoảng 1/3 dân số Thái Lan lúc đó nói tiếng mẹ đẻ là tiếng Lào, trong khi vẫn thông thạo tiếng Thái Bangkok dạy ở nhà trường từ bậc mẫu giáo. Vì lý do chính trị, Chính phủ Thái Lan coi tiếng Lào như một phương ngữ của tiếng Thái và gọi trẽ đi là tiếng Isan.
Năm 1950, khi mới từ Việt Nam sang Nongkhai để chờ công tác, Nguyễn Văn Ngọ học tiếng Thái Bangkok. Sang đến chiến trường Thượng Lào ông học tiếng Lào qua truyền khẩu, không học chữ Lào. Khi về ở nhà cụ Tú, ông cũng đọc lọ mọ được báo Thái Lan, nhưng đêm đêm nhờ nghe cụ đọc báo mà nâng cao trình độ.
Một điều khá cảm động về cụ Tú, là tuy đã nửa thế kỷ xa Tổ quốc, suốt ngày đêm chỉ nói tiếng Lào và tiếng Thái, đọc sách báo Thái, nhưng cụ vẫn âm thầm nhớ da diết những điệu hò, câu hát Việt. Một lần hai bác cháu ngồi hóng mát bên bờ sông Mekong, nhìn sang phía Vientiane thấy một con tàu cặp bến, khách kẻ xuống người lên, rồi tàu lại rời bến, tiếp tục ngược dòng, Nguyễn Văn Ngọ bất giác đọc theo hứng:
Tình về Đại Lược,
Duyên ngược Kim Long,
Đến đây là chỗ rẽ của lòng,
Gặp nhau còn biết bên sông bến nào!
Cụ Tú nhìn ông nói: “Não người quá, cậu ơi”. Ông hỏi: Cụ nhớ một người cũ nào chăng? thì cụ trả lời “Tôi nhớ những điệu hò, câu hát ở quê nhà!”. Ông không thạo về hò Huế, không nhớ bài nào trọn vẹn, mỗi bài chỉ nhớ được vài câu hay hay, nhưng hồi đó cũng cố lục tìm trong ký ức chép ra cho cụ một số câu, cụ trân trọng nắn nót ghi vào sổ tay:
Thuyền ai thấp thoáng bên sông,
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non!
Hay câu:
Một mình em giữa sông Hương,
Tiếng ca du nữ đoạn trường ai nghe!
Chuyện Nguyễn Văn Ngọ đến ở nhà cụ Tú không lọt qua mắt cảnh sát Thái Lan, nhưng Cảnh sát trưởng là một người có cảm tình với Cách mạng Việt Nam. Tuy vậy ông này cũng là một sĩ quan mẫn cán. Thường ông báo trước cho phía ta biết sẽ có bố ráp, thậm chí cho biết trước cả đối tượng, nhưng nếu ta không kịp đưa cán bộ lánh đi xa hoặc giấu kỹ, thì khi đã cầm quân đi lùng sục là ông ta làm ráo riết, nếu bắt được thì ta khó chuộc. Một lần ông đến thăm cụ Tú, gặp Nguyễn Văn Ngọ đang ngồi cộng sổ, ông hỏi: “Anh làm nghề gì?”. Nguyễn Văn Ngọ trả lời là cứ đến mùa thì theo cánh thợ cưa đi học việc. Cảnh sát trưởng hỏi tiếp: “Cưa được bao nhiêu đầu Pháp rồi?”. Nguyễn Văn Ngọ bình tĩnh đáp: “Chúng tôi chỉ đi cưa trên đất Thái thôi”. Ngồi một lát, viên Cảnh sát lại đột ngột hỏi: “Sang đây dạy văn hóa phải không?”. Nguyễn Văn Ngọ im lặng, sau đó báo cáo lại, cấp ủy nhận định đây là thiện chí, nhưng vẫn đổi giờ và đổi chỗ các lớp học văn hóa do Nguyễn Văn Ngọ dạy cho con em kiều bào.
Lần sau, viên Cảnh sát trưởng lại đến báo với cụ Tú là sắp có cuộc bố ráp. Như hiểu ý cụ Tú muốn hỏi về Nguyễn Văn Ngọ, vị cảnh sát này nói: “Bảo Đeng (tên căn cước của Nguyễn Văn Ngọ ở Thái Lan) mai đừng đi dạy học”. Đúng là ngày hôm sau có bố ráp thật, cảnh sát đến tất cả địa điểm có tổ chức lớp học.
Qua báo chí và một số quan chức Thái Lan cụ Tú nắm được các bước đi của chính quyền Thái trong việc đối phó với Việt kiều kháng chiến, và đã sớm cảnh báo với cấp ủy Đảng ta tại Nongkhai về một cuộc đại khủng bố. Khi Nguyễn Văn Ngọ còn ở Thà Bò, cụ đã báo với cấp ủy sớm muộn toàn bộ cán bộ cốt cán sẽ bị bắt đưa đi đày biệt xứ, và đề nghị nên đưa Nguyễn Văn Ngọ vào miền trung Thái, cụ sẽ giúp để xin nhập quốc tịch, và đi học để sau về phục vụ cho Cách mạng. Kiến nghị không được cấp ủy chấp nhận và Nguyễn Văn Ngọ cũng khước từ, vì ông là cán bộ do Liên khu ủy 4 cử đi, cấp ủy Đảng ở Thái Lan không quyết định được, hơn nữa bản thân ông nghĩ, đi theo con đường này là sẽ bị cách ly hoàn toàn với gia đình chưa biết đến bao giờ mới được trở về!
Đầu năm 1953, Nguyễn Văn Ngọ được đưa xuống Nongkhai để chuẩn bị về nước. Trong buổi tiễn đưa, cụ Tú tặng Nguyễn Văn Ngọ bức ảnh nói trên, cụ bà và Y Hoa buộc chỉ tay cho Nguyễn Văn Ngọ để chúc may mắn. Hôm đó, gần như tất cả chức sắc và bạn bè trong cộng đồng người Việt đến tiễn.
Đó cũng là lần gặp cuối cùng của Nguyễn Văn ngọ với gia đình cụ Nguyễn Văn Tú. Năm 2005, Giáo sư Nguyễn Văn Ngọ và gia đình trở lại Nongkhai, Thái Lan để tìm lại tin tức gia đình cụ Nguyễn Văn Tú cũng như bày tỏ lòng tri ân đối với người đã cưu mang, nuôi dưỡng mình nhưng nghe kể lại rằng những ngày sau khi ông về nước gia đình cụ Tú đã chuyển về quê ngoại ở miền Bắc Thái Lan, bị hiểu lầm và bị bắt đi đầy biệt xứ. Chuyện này khiến ông rất buồn.
Hai câu thơ của nhà thơ Chế Lan Viên: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn” thật đúng với Giáo sư Nguyễn Văn Ngọ trong hoàn cảnh này. Mảnh đất Thà Bò, Thái Lan và những kiều bào sinh sống tại đó đã nuôi dưỡng và cưu mang ông trong những ngày hoạt động cách mạng bí mật. Nếu không có những con người đó thì có lẽ cuộc đời ông đã rẽ theo một hướng đi khác. Ngắm nhìn bức ảnh mà nhớ đất, nhớ người năm xưa, tất cả đã in sâu vào tâm trí và mỗi lần nhắc tới lại khiến ông bồi hồi.
Nguyễn Thanh Hóa (ghi)
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam
[1] Xem thêm bài: Nhớ về những ngày đầu theo ngành Vô tuyến điện. Nguồn: http://cpd.vn/news/detail/tabid/77/newsid/902/seo/Nho-ve-nhung-ngay-dau-theo-nganh-Vo-tuyen-dien/Default.aspx