Qua những dòng sử thi truyền từ đời này sang đời khác, người ta tìm thấy những phẩm chất hết sức thuần phác của một vùng người, vùng đất, của một vùng lịch sử đã được hình thành với đầy đủ sức mạnh để đi tới, bất chấp mọi thử thách.
Điểu Kâu (trái) và TS Đỗ Hồng Kỳ trao đổi về sử thi Mơ Nông.
Nơi ấy là một tập hợp phong phú, quần tụ nhiều dân tộc anh em, mặc dù có sự phát triển không đồng đều, có dân tộc còn non yếu như vừa từ thời nguyên thuỷ bước ra, lại có những dân tộc đã đạt đến một trình độ cao, từng trải và bản lĩnh. Trong khi người Ê Đê đã có họ, có tên, có văn tự, văn học nghệ thuật thì người X’Tiêng, người Mơ Nông vẫn đang tù mù.
Nhưng người Mơ Nông lại có cụ Điểu Kâu. Cụ Điểu là một trong những người đóng vai trò chủ yếu làm ra nhiều bộ sách quý đã được xuất bản tại Hà Nội mấy thập kỉ vừa qua: Truyện cổ Mơ Nông, Thơ nói vần Mơ Nông, Cây nêu thần và đặc biệt là bộ Đại sử thi Mơ Nông. Đấy là ông lão có đôi tai thính, cái lưỡi khôn ngoan và một trí tuệ hiếm thấy. Ông cụ chính là đại biểu của văn hoá Tây Nguyên, một người rất giàu có mà cũng hết sức hào phóng, một thực thể văn hoá sống động, là bộ bách khoa toàn thư, là cuốn từ điển của nhiều ngôn ngữ.
Biết Hà Nội có cụ giáo Thấu cũng là nhờ ở sự gợi ý của cụ Điểu Kâu. Hai cụ là bạn cố tri, họ chơi với nhau đã nhiều năm, tự bao giờ thì cũng chẳng rõ, nhưng hẳn là phải lâu rồi. Cứ xem cung cách hai cụ nhắc đến nhau mà hiểu vậy. Những người già mang nhiều bí ẩn mà kẻ hậu sinh rất khó lường, sự hấp dẫn của họ còn là ở đó.
Tôi tới thăm thì vừa hay cũng là lúc cụ giáo Thấu đang ngồi tiếp chuyện một nhà nghiên cứu người Pháp. Ông này từ Pa-ri qua đây cũng là để tìm hiểu nền văn hoá Tây Nguyên.
Người khách Pháp hỏi: Liệu đã có dịp nào cụ và L. Xa-ba-chi-ê gặp nhau để nói chuyện về Đăm Săn? Cụ Thấu trả lời: Tôi không có may mắn được gặp L. Xa-ba-chi-ê lần nào, chỉ nghe nói lại. Đó là một trí thức có nhiều hoài bão và cũng là một nghệ sĩ. Mà nghệ sĩ thì rất khó làm quan cai trị. Do quá yêu Tây Nguyên mà L. Xa-ba-chi-ê đã quên khuấy mất mục đích đến đây của người Pháp. Thoạt đầu lên Đăk Lăk, ông ấy làm Đại lí Buôn Ma Thuột, vài năm sau chính thức được bổ nhiệm Công sứ. Hôm rời Đăk Lăk, ông ấy chỉ mang theo một trái bầu khô và một cây nỏ gỗ mun, quà của mấy ông già trong buôn gửi tặng. Theo tôi biết thì ông ấy học tiếng Ê Đê qua hai anh em Y Dút và Y Út, sau đó lại cùng họ mầy mò tìm ra chữ viết cho người Ê-đê. Năm 1933 tại Pa-ri, L. Xa-ba-chi-ê công bố lần thứ hai bản dịch khan Đăm Săn của mình, lần này có kèm thêm cả bản tiếng Ê Đê được sưu tầm khá công phu. Lần công bố thứ nhất là vào năm 1927.
Theo cụ Thấu thì trong mấy ông Công sứ Pháp đã từng thụ chức ở Đăk Lăk, không thấy ông nào lại lạ lùng như L. Xa-ba-chi-ê, tưởng như ông ta từ trên trời lạc xuống, chứ không phải là một quan chức được đào tạo tử tế trong Trường hành chính cao cấp Pa-ri. Trước ngày quay về Sài Gòn để xuống tàu, L. Xa-ba-chi-ê đã tổ chức một đêm hội đốt lửa đâm trâu ăn thề với nhau, nhất quyết không chịu lùi bước, nhất quyết giữ lấy đất đai không cho ai khai thác. Ông ta ngồi giữa đám dân chúng và các tù trưởng, hát và uống rượu cùng họ. L. Xa-ba-chi-ê là người rất coi trọng vai trò tù trưởng. Chả rõ nếu còn tiếp tục ở lại, thì ông ta sẽ đi đến đâu, rất có thể sẽ cưới một cô gái Ê Đê làm vợ, mà phải là một cô vừa đẹp, vừa múa giỏi, hát hay.
Cụ giáo Thấu là người am hiểu Tây Nguyên như một trí thức đã có một đời gắn bó với nó. Năm 1936, cụ Thấu từ Huế ngồi tàu hoả ra Hà Nội xin vào học Trường Thăng Long, sau một năm thi đỗ Segondaire lại chào Hà Nội về Huế kịp thi vào trường Sư phạm. Cụ học lớp cấp tốc một năm, học xong được điều lên Buôn Ma Thuột. Và thế là gắn bó lâu dài với nơi này.
Tây Nguyên có khoảng gần hai chục dân tộc. Tại Đăk Lăk, cụ giáo Thấu chọn tiếng Ê Đê làm tiếng phải học. Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (năm 1954) ông tập kết ra Bắc, công tác ở Ban thống nhất Trung ương, bắt đầu học lại tiếng Ê Đê để bắt tay vào nghiên cứu văn hoá Tây Nguyên một cách hệ thống, bài bản.
Trường ca Đăm Săn hay khan Đăm Săn là một bộ sử thi truyền miệng lớn của dân tộc Ê Đê. Được phát hiện vào năm 1924, đến năm 1927 nó đã có mặt ở Pa-ri cùng với lời giới thiệu trang trọng của L. Xa-ba-chi-ê. Năm 1957 tại Hà Nội, Trường ca Đăm Săn đã được nhà nghiên cứu Đào Tử Chí giới thiệu và dịch ra tiếng Việt. Ngoài ra còn có những dị bản gốc Ê Đê, như bản của Y Vông Mơno, bản của Y Dung và bản nữa của Y Bí Alêô.
Đáng bàn vẫn là bản tiếng Pháp của L. Xa-ba-chi-ê và bản tiếng Việt của Đào Tử Chí. Bản tiếng Pháp ở cả hai lần in vẫn có những sai lầm đáng tiếc, đến bản tiếng Việt do căn cứ quá nhiều vào bản tiếng Pháp mà lầm lẫn ấy lại được nhân lên, nên càng đáng tiếc hơn. Việc phấn đấu để có một bản dịch mới hoàn chỉnh được đặt ra như một yêu cầu không thể bỏ qua. Cũng như nhiều người, thầy giáo Thấu sớm được làm quen với một cộng đồng người Thượng mà cách đó chưa lâu vẫn còn rất xa lạ. Qua anh em bầu bạn, nhất là qua mối quan hệ ngày càng thân thiết với bà con trong các buôn làng, dần dà trong lòng chàng trai nhạy cảm đã manh nha se bện, đã khơi dậy một tình yêu và sự say mê trước những vẻ đẹp mới mẻ, trước các giá trị của một nền văn hoá đầy hấp dẫn.
Về sau này mỗi lần nhớ lại, cụ vẫn nói mình phải biết ơn rất nhiều những năm tháng ấy, những con người nơi ấy, chính nó đã làm cho cuộc đời mình đậm đà thêm rất nhiều. Cụ Thấu mê khan, kể cả khan Đăm Săn và khan Đăm Kteh Mlan. Mong ước suốt đời của cụ là sẽ có một ngày chính cụ dịch được một bản khan toàn bích để nó có mặt trong tủ sách chung của đại gia đình các dân tộc anh em một cách xứng đáng như nó cần phải thế. Cụ xem đây là trách nhiệm của bản thân mình.
Ơ Hơ nhi, ơ Hơ bhi đừng mong đợi tôi làm gì nhé. Ơ Nuê, ơ Nuê, Nuê lại đi đâu nữa thế? Tôi đi làm gì ư, tôi nghe danh vang đến thần, tiếng lừng khắp núi, Đông, Tây đâu đâu cũng nói Nữ thần Mặt Trời là cô gái xinh đẹp, đôi bắp chân nàng tròn trặn, váy nàng mặc tuyệt vời là đẹp. Vì vậy các cô đừng mong đợi tôi làm gì. Mười ngày tôi sẽ ngủ lại, sáu đêm tôi sẽ nằm lại dọc đường. Tôi sẽ đi hết tháng, hết năm.
Cụ Thấu đã ngồi dịch những trang ấy bằng hồn của người và hồn của sông núi Tây Nguyên. Một năm trước ngày Cách mạng Tháng Tám, cụ Thấu tạm xa Đăk Lăk tìm về Thanh, rồi từ Thanh cụ lại mò ra Hà Nội. Cũng là đã đến năm đến tháng, lần ấy cụ gặp được cụ bà, con gái một vị bác sĩ thú y, thế là họ nên vợ nên chồng. Cũng chẳng khác nào câu khan Đăm Săn, Tôi sẽ đi hết tháng hết năm. Sau tháng giêng năm 1946, tại Thanh Hoá cụ được Việt Minh điều trở lại Đăk Lăk. Lần này lên đó là để phụ trách Đội Cựu binh sĩ dân tộc yêu nước trên bảy chục người. Trong số đó nổi lên có Y Blôc Êban, Y Don tức Minh Sơn, Y Tlam tức Sĩ Lâm, Ksor Ní, Rơ Chăm Yon và Kpa Thiên… Ngày cụ Thấu mới lên trên này, trừ hai ông Y Ngông Niê Kđăm và Ynuê là đã lớn và được gửi xuống học ở trường Y sĩ Đông Dương dưới Quy Nhơn, còn tất cả chỉ mới mươi, mười hai tuổi, hầu như đều là học trò của cụ. Có cậu lúc còn là học trò thì dốt đặc cán táu, nhiều lần phải ăn đòn bằng một cái thước gỗ lim của cụ, nhưng ra đời thì lại xuất sắc không chê vào đâu được. Đó chính là những chàng Đăm Săn, là những người anh hùng rất tài năng, chính họ đã góp phần không nhỏ cùng đất nước làm nên một bộ sử thi của thời đại Hồ Chí Minh.
Sáng nay cụ Thấu ngồi tại phòng làm việc của mình, trên gác hai một ngôi nhà xinh xắn, sát tường nhà thờ Nam Đồng, khuất trong một ngõ nhỏ. Lắng nghe tiếng chuông nhà thờ ngân nga lòng cụ thanh thản lạ thường. Cụ toan ngồi vào bàn thì có tiếng kẹt cửa, cụ bà đang nhòm vào, chắc là bà ấy xem mình có còn ngồi đây nữa hay không chứ gì, bà cứ yên tâm đi, Thấu này vẫn còn tiếp tục ngồi, nó còn ngồi đây lâu. Cụ nhìn ra ngoài cửa sổ, mưa bụi đang làm mờ mịt một vùng thành phố. Đầu óc lại chợt muốn quay về những ngày đã xa, cụ lại nghĩ đến họ, những học trò, những đồng chí của cụ. Tất cả đều được cụ điểm danh, từng khuôn mặt đều được cụ gọi về. Thấu này vẫn đang sống xứng đáng với các bạn. Thấu này vẫn đang làm việc và nó đang bước đến gần, nó đã sờ thấy kết quả của công việc.
Cụ Nguyễn Hữu Thấu đang lẳng lặng ngắm mình bước tới cái đích diệu kì sau trên ba mươi năm ròng rã không được phép chán nản. Giờ đây, chỉ mình cụ hiểu ra niềm hạnh phúc của sự sáng tạo trên đời này là thế nào. Vâng, nó cũng giản đơn thôi, nhưng chỉ những ai đã từng sáng tạo mới có thể hiểu được. Cái hơn người, cái khác người cũng chỉ là ở chỗ ấy.
Như để thu vào mình cho bằng hết nội lực, cụ dụi luôn điếu thuốc, rồi vơ vội bút viết những dòng sau cùng cho tập bản thảo đã hoàn tất, nói như cụ là đã có thể hài lòng. Sách được chia làm ba phần, phần tiếng Ê Đê, phần tiếng Việt và phần từ vựng Ê Đê- Việt. Cụ quyết định cho in lần này cả khan Đăm Săn và khan Đăm Kteh Mlan vào chung một cụm vì nó là hai khan anh em. Sau tất cả, cụ trịnh trọng đặt bút viết lời giới thiệu cho cuốn sách.
Cụ không quên ghi vào phần khan Đăm Săn tên người dịch tiếng Pháp L. Xa-ba-chi-ê, 1933. Và tên người đã dịch tiếng Việt: Đào Tử Chí, 1959-1977. Còn cụ là người hiệu đính, chú thích và dịch thuật 1988. Ở phần khan Đăm Kteh Mlan cụ để tên người khan lên trước tên mình: Y Yung Adrông 1965. Cụ là người sưu tầm, chỉnh lí, dịch thuật.
Công phu, rành mạch và chu đáo, biết tôn trọng những người đi trước, đó là điều làm nên niềm tin cậy cũng như sự quý trọng của mọi bạn đọc. Cụ giáo Nguyễn Hữu Thấu, một người cầm bút, luôn luôn tự nhắc nhở mình như thế và cụ đã làm được như thế. Trong đời cụ, kể từ năm hai mươi ba tuổi đến năm tám mươi chín tuổi, đã từng đi đi về về với mảnh đất Tây Nguyên cả trăm lần, chả lần đi nào cụ có máy ảnh, máy quay phim hoặc máy ghi âm. Nhưng những gì cụ Nguyễn Hữu Thấu đã gặt hái được, hay nói đúng hơn, những gì mà cụ đã kịp để lại cho chúng ta lại là những thành tựu mang giá trị rất bền vững.
Nhà văn Đỗ Chu
http://nguoicaotuoi.org.vn/Story.aspx?lang=vn&zoneparent=0&zone=3&ID=2192