Chúng tôi gặp GS.TS Trần Đức Hòe – nguyên Trưởng khoa Tiết niệu, Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 tại căn phòng số 307, nhà C3 thuộc Khu tập thể Trần Phú, Hà Nội. Mặc dù đã ngoài bát tuần, mái tóc đã bạc trắng nhưng ông vẫn rất minh mẫn. Từng tủ tài liệu liên quan đến quá trình công tác, nghiên cứu khoa học của Giáo sư Hòe được ông sắp xếp một cách ngăn nắp, gọn gàng, trước khi trao tặng cho Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam lưu giữ. Một trong những tư liệu được Giáo sư Hòe lưu giữ cẩn thận là cuốn Nhật ký chiến trường ông viết trong thời gian công tác ở mặt trận Nam Lào. Lật giở những trang viết đã nhòe mực bởi thời gian, ông kể cho chúng tôi nghe những kỷ niệm về một thời đạn bom khói lửa và qua đó đã giúp chúng tôi hiểu hơn về cuộc sống cũng như tình quân dân nơi đây.
Lần đầu đặt chân trên đất nước Triệu Voi
Năm 1958, sau khi tốt nghiệp trường Đại học Y khoa Hà Nội, BS Trần Đức Hòe được cử về làm công tác ngoại khoa ở Quân y Viện 7 (Hải Phòng) thuộc Quân khu Tả Ngạn. Trong những năm làm việc tại đây, ông đã thực hiện thành công nhiều ca phẫu thuật chữa trị cho quân nhân và nhân dân.
Đầu năm 1961, BS Trần Đức Hòe nhận nhiệm vụ chuẩn bị đi đào tạo ở Liên Xô. Nhưng vài tháng sau, Cục trưởng Cục Quân y – Đại tá Vũ Văn Cẩn thân mật trao đổi với anh bác sĩ quân y trẻ: “Cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam đang mở rộng, các chiến trường rất cần phẫu thuật viên, cậu còn trẻ, đi chiến trường 1-2 năm rồi ra học cũng vừa[1]”.
Do yêu cầu của Quân khu, những bác sĩ nam ở các Quân y Viện 7, 9, 10 được vận động tham gia Mặt trận Nam Lào. Bác sĩ Hòe đã cùng các cán bộ Quân y Viện lên kế hoạch chuẩn bị chu đáo cho chuyến đi các trang thiết bị cần thiết: dự trù xin phương tiện, dụng cụ mổ xẻ và cáng thương binh. Những người chuẩn bị tham gia chiến trường còn được học tập đường lối và chính sách trước khi lên đường.
GS.TS Trần Đức Hòe (phải) giới thiệu những bức ảnh
trong thời gian công tác tại Mặt trận Nam Lào
Sáng sớm ngày 10-5-1962, BS Trần Đức Hòe cùng các cán bộ y bác sĩ bắt đầu lên đường. Hành trình gian truân, vất vả sang đất bạn còn in đậm trong tâm trí của GS Hòe. Ông kể: Chuyến hành trình dài bắt đầu từ Hà Nội, vượt sông Gianh vào Đồng Hới (Quảng Bình) bằng xe ô tô tải, sau đó ngược đường số 7 đến đồn biên phòng Việt-Lào ở Cha Lo. Từ Cha Lo đến Xê Pôn, bản Đông, đoàn Quân y bắt đầu hành quân đi bộ leo núi, xuyên rừng vùng Trung Lào của tỉnh Savanakhet và càng ngày càng đi sâu vào phía Nam. Đoàn phải vượt núi, băng rừng, lội suối, đối mặt với những nguy hiểm tiềm ẩn như muỗi vắt, những cơn mưa rừng dai dẳng và cả tai nạn bất ngờ…
Sau 35 ngày hành quân, đoàn đã đến một tỉnh miền Đông Lào giáp ranh với tỉnh Quảng Nam ở Việt Nam, để từ đó về bản The, vào Khu ủy của bạn đóng ở bản Hin Lạt, phía Tây Nam cao nguyên Bôlôven. Đây cũng là điểm dừng chân cuối cùng của đoàn. Lần đầu tiên đặt chân trên đất nước Triệu Voi, đã để lại những ấn tượng trong suy nghĩ của BS Hòe: “… Đất nước bạn giàu đẹp, rừng già bao la toàn gỗ quý, còn có thể khai thác được nhiều, tài nguyên phong phú nhưng ở đây sốt rét rất nặng, có khi đi tiểu tiện ra máu…” [2]
Tiếp Đoàn Y tế Việt Nam tại Mặt trận Nam Lào khi Đoàn đặt chân đến Bôlôven có ông Phu Ma-Quân khu trưởng và ông Võ Quang Hồ – Trưởng cố vấn quân sự của Việt Nam. Nhiệm vụ chính của BS Hòe và cán bộ quân y là bảo đảm y tế cho các lực lượng tình nguyện ra chiến trường phục vụ cho các đơn vị của ta và của nước bạn Lào chiến đấu, đưa thương binh sau mỗi trận đánh về cơ sở của Đoàn để chữa trị.
Cuộc sống ở nước bạn
Trước khi đi, không ai ngờ thời gian ở Lào lại kéo dài đến thế. Gần 6 năm, đó thực sự là thử thách đối với cán bộ trong Đoàn.
Bản Hin Lạt – đại bản doanh của Đoàn – là một ngôi làng người Lào Lùm còn khá sơ khai, cuộc sống chủ yếu dựa vào chăn nuôi, cấy lúa nước, tự cung tự cấp. Tuy điều kiện sinh hoạt còn khó khăn nhưng người dân nơi đây lại rất tích cực tham gia cách mạng, sẵn sàng đóng góp của cải cho cách mạng, có khi chỉ là một vài bát gạo, nhưng thật sự quý giá bởi trong khi cuộc sống của bản thân họ đang rất thiếu thốn. Dân làng sẵn sàng đi dân công, gùi hàng cho bộ đội cách mạng, gùi các phương tiện phục vụ cho Đoàn phẫu thuật. Tình cảm quân dân vì thế càng thêm gắn bó. Đây chính là động lực để BS Hòe và cán bộ trong đoàn hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.
Ban đầu, cơ sở vật chất gần như không có. “…Thật là vất vả, vì phải xây dựng từ không đến có, cái gì cũng phải đề cập đến, nghĩ mà lo, sao cho mọi việc vào nề nếp…”[3]. Bác sĩ Hòe với cương vị là Trưởng đoàn đã đưa ra các "khẩu hiệu", chỉ đạo các cán bộ xây dựng kế hoạch hoạt động và bệnh xá dã chiến để khám chữa cho thương binh. Cuộc sống của Đoàn cán bộ quân y ở đây thật khó khăn. Mùa mưa, thời tiết oi bức, muỗi nhiều, anh em cán bộ thường xuyên bị sốt rét, đi rừng gặp mưa bị vắt cắn còn mùa khô thì thiếu nước. Xà phòng để tắm giặt cũng thiếu, đa số cán bộ bị bệnh hắc lào, lở loét. Những căn bệnh lây lan nhanh thường để lại hậu quả nghiêm trọng. Bác sĩ Hòe luôn nhắc nhở mọi người phải phòng chống lây lan, nhất là tránh để lây sang thương bệnh binh, tất cả đều “Phải tự mình cứu mình” trước.
Và để đảm bảo lương thực, thực phẩm, BS Hòe đề ra khẩu hiệu “Phải tăng gia sản xuất”. Mỗi người phải trồng 500 gốc sắn, 5 gốc dứa, xin cây chuối của người dân về trồng. Để có rau ăn, ông lại đề ra khẩu hiệu “Đi không về có” tức là khi đi vào bản của người dân, có thể xin các giống cây rau về để trồng. Mùa mưa thì đi lấy măng, mùa hè thì đi săn bắn.
Bác sĩ Trần Đức Hòe (từ phải sang, đứng thứ 3) cùng đồng nghiệp và
thương binh tại chiến trường Nam Lào, năm 1963
Cuộc sống vất vả, điều kiện khó khăn là thế nhưng BS Hòe và anh em cán bộ luôn đoàn kết gắn bó, yêu thương lẫn nhau. Từ người chỉ huy đến cán bộ đơn vị, ai cũng tự giác, không dành phần riêng cho mình dù chỉ là một bát cháo, củ sắn lùi…
Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ
Công việc điều trị, chăm sóc thương, bệnh binh của BS Hòe cứ kéo dài liên miên. Thường thường, Bác sỹ Quân y phải theo bộ đội hành quân, đến chỗ tập kết phải nhanh chóng căng lều lán y tế, chặt nứa, cây con để làm bàn mổ dã chiến, sẵn sàng đón thương binh bất cứ lúc nào.
Trong số hàng nghìn bệnh nhân đã chữa trị trong suốt thời gian ở Nam Lào, có nhiều trường hợp quá nặng, tưởng chừng không qua khỏi, nhưng bằng sự quyết tâm, lòng nhiệt huyết cùng với tay nghề vững vàng, đoàn cán bộ quân y đã giúp họ vượt qua những cơn nguy kịch. Điển hình như trường hợp thương binh Hòa là quân tình nguyện Việt Nam ở chiến trường Lào, khi tham gia ở trận bản Mày bị gãy xương đùi do vết thương hỏa khí, đã để quá lâu (45 ngày) nên bị nhiễm trùng và thối xương. Trong Nhật ký chiến trường, BS Hòe đã viết về trường hợp này: “Sau khi mổ với một quyết tâm cao đã cắt đoạn 1/3 dưới đùi phải cho bệnh nhân Hòa. Thật là lịch sử của đời người phẫu thuật viên: mổ dưới trời mưa, phải căng dù, chân đứng trên bùn, dụng cụ vẻn vẹn có 8 cái Pinces (kìm phẫu thuật), cưa phải dùng cưa quân khí, ngoài ra chẳng dùng cái gì khác; thuốc thì thật là gay, chẳng có huyết tương, huyết thanh…Gây tê trong xương kết hợp với gây tê tại chỗ và dùng thuốc đông miên thì vẫn có kết quả tốt. Bệnh nhân vẫn tỉnh, vẫn chịu đựng được cưa chân không một tiếng kêu ca, làm garô kết hợp với băng d’Esmach thì bệnh nhân đỡ mất máu. Đúng 13h30’ đã mổ xong cho bệnh nhân và bệnh nhân vẫn tỉnh, cần theo dõi thêm 24h nữa. Các đồng chí cấp cứu phải thay phiên nhau túc trực cả ngày và đêm… Nghĩ lại lúc đang mổ, bệnh nhân bị toát mồ hôi, mạch yếu hẳn đi vừa làm vừa ngại cho bệnh nhân. Qua một ngày chờ đợi, bệnh nhân tỉnh, ngủ lu bù cả ngày và đêm. Lúc tỉnh, ăn được sữa và cháo gà” [4]. Ca mổ thành công, sau 3 tháng bệnh nhân hồi phục và được chuyển ra miền Bắc theo đường giao liên. "Niềm hân hoan, hạnh phúc của người thương binh ở ngoài mặt trận, khi vết thương đã liền da, liền thịt, cũng là niềm vui của người Bác sỹ Quân y"- GS.TS Trần Đức Hòe bày tỏ nỗi lòng của người thầy thuốc.
Một trang nhật ký chiến trường của BS Trần Đức Hòe
Trong hoàn cảnh ở chiến trường, xa hậu phương, ngoài việc cấp cứu mổ xẻ, BS Hòe vận động anh em cán bộ phải luôn sẵn sàng cứu chữa, điều trị cho mọi tình huống bệnh tật có thể gặp phải như: các vết thương do thú cắn, các tai nạn chấn thương, bệnh đường ruột, bệnh sốt rét và bệnh ngoài da. Bên cạnh việc đảm bảo y tế, đoàn còn phải làm công tác dân vận để bảo vệ cho cơ quan, chống biệt kích và giúp đỡ dân khi ốm đau.
Thành công của các ca chữa trị cho người dân địa phương đã thắt chặt thêm tình quân dân gắn bó Việt-Lào. Điển hình như trường hợp cứu sống một cháu bé người dân tộc Lào khoảng 11-12 tuổi bị sỏi thận, đã ủ bệnh 5 tháng. GS Hòe kể: "Đó là một cháu bé rất nhỏ, chỉ có da với xương… Khi khám cho cháu, tôi mới phát hiện ra cháu bị một viên sỏi to ở bàng quang. Cháu bé được làm xét nghiệm và khám chữa, tất nhiên với những gì được trang bị,.. Cháu bé được cứu sống, cả đoàn chúng tôi thấy rất mừng…”. Ca phẫu thuật lấy sỏi thành công, người dân địa phương rất biết ơn BS Hòe và các cán bộ quân y đã gửi tặng con lợn hai chục cân để mọi người làm bữa ăn tươi cải thiện đời sống.
Bên cạnh nhiệm vụ chính là khám chữa bệnh, BS Hòe và đoàn cán bộ quân y còn bắt tay giúp bạn xây dựng cơ sở bệnh xá, xây dựng chế độ làm việc như lấy mạch, theo dõi cặp nhiệt độ khi điều trị, cấp phát thuốc…; mở các lớp đào tạo y tá cho phù hợp với hoàn cảnh của nước bạn. Lớp đào tạo có 15-20 học viên, hầu hết đều là con em các các dân tộc ở các bản làng tham gia cách mạng đã được lựa chọn đào tạo trong vòng 3-4 tháng. Thông qua lớp đào tạo tại vùng nơi đóng quân, BS Hòe cùng đoàn cán bộ quân y đã bước đầu xây dựng một mạng lưới y tế, phát hiện những học viên có nhận thức tốt tiếp tục đào tạo lâu dài ở Việt Nam. Trong số các y tá được Đoàn Quân y Việt Nam đào tạo, có Bun Sịa là một học viên người Lào Thưng thuộc tỉnh miền Đông sau đó đã được cử đi đào tạo ở Học viện Y học Quân sự Liên Xô.
Với những thành tích trên, đầu năm 1967, Đơn vị Quân y do BS Trần Đức Hòe làm Trưởng đoàn được công nhận là Đơn vị Quyết thắng, nhận Huân chương Chiến công hạng Hai và quà tặng của Bác Hồ là chiếc đài bán dẫn 6 băng.
Giờ đây, mặc dù chiến tranh đã lùi sâu về quá khứ, nhưng những tháng ngày ở Nam Lào (1962-1967) đối với GS.TS Trần Đức Hòe luôn là những kỉ niệm không thể nào quên.
Hoàng Liêm – Phạm Hải
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam
[1] Trích sách “Những ký ức và kinh nghiệm một đời thầy thuốc” của GS.TS Trần Đức Hòe. H- Chính trị Quốc gia, 2011, tr.31.