Người tiếp sức cho tôi

 Tình yêu và thử thách

Trong căn phòng khách đơn giản nhưng rất hiện đại do ông tự thiết kế tại một ngõ nhỏ trên phố Chùa Bộc, chúng tôi được cùng ôn lại câu chuyện tình yêu đẹp và những khó khăn, thử thách của ông bà. Đó là câu chuyện tình duyên của gần 50 năm về trước, một mối tình được vun đắp từ sự quen biết, tìm hiểu lâu dài trên cơ sở tình bạn của hai người cha.

“Tôi quen Chi khi đang còn là anh sinh viên trường Đại học Bách khoa năm thứ nhất, vào cái ngày mà cha tôi dẫn tôi đến thăm một người bạn cùng học trường Quốc học Vinh là ông Đỗ Hữu Vinh ở 17 phố Huế. Trong buổi gặp gỡ của hai người cha, tôi đã bắt gặp hình ảnh Chi – một thiếu nữ đang độ tuổi trăng tròn ngồi chải tóc trước gương, với khuôn mặt khá xinh, nước da trắng hồng, mặc chiếc áo khoác ngoài kẻ caro màu vàng-nâu, kiểu áo được gọi là “thắt cổ mổ bụng” mà phần lớn các nữ sinh Hà Nội thường mặc thời bấy giờ. Với đề nghị của bố mẹ Chi, tôi nghiễm nhiên thành “gia sư không công” dạy toán cho Chi, đó cũng chính là cơ hội để tôi được gần gũi, bày tỏ tình cảm của mình với Chi. Bảy năm trôi qua, tình cảm của “thầy” và “trò” ngày một lớn dần. Năm 1964, được sự đồng ý của hai bên gia đình, chúng tôi tổ chức đám cưới với nghi lễ thành hôn đơn giản chỉ có bánh kẹo, nước trà, mở đầu cho những ngày tháng hạnh phúc trong cái khó khăn của thời bao cấp” NGND GS.TS Nguyễn Xuân Bảo chia sẻ.

 GS.TS, NGND Nguyễn Xuân Bảo và bà Đỗ Phương Chi, năm 2000

Đôi vợ chồng trẻ chỉ được hưởng trăng mật 2-3 ngày, sau ngày cưới bà Chi phải xuống Hải Dương học lớp Thuế quốc doanh do Sở Tài chính mở. Sau một năm, khóa học kết thúc cũng đúng vào lúc trường Đại học Thủy lợi phải sơ tán chạy lên Hà Bắc, để tiện chăm sóc cho chồng, bà đã bỏ công việc ở Sở Tài chính về trường công tác cùng ông. Cuộc sống có nhiều vất vả, lương hai vợ chồng không được bao nhiêu, hàng tháng hai ông bà  còn gửi tiền phụ giúp bà nội và chu cấp cho em trai ông học Đại học. Năm 1966, theo chủ trương chung của Nhà nước về đào tạo cán bộ có trình độ khoa học cho các trường Đại học, góp phần phục vụ sự nghiệp xây dựng đất nước, ông sang Bucarest- Rumani làm Nghiên cứu sinh trong vòng 4 năm. Trong thời gian xa cách, bà đã động viên bằng những lá thư để chồng yên tâm học tập. Đáp lại sự mong mỏi, động viên của bà, ông đã tập trung nghiên cứu và là một trong những người hoàn thiện sớm chương trình, về nước trước mấy tháng. Do hoàn cảnh luôn phải xa cách, 6 năm sau ngày cưới ông bà mới sinh được con gái Phương Anh, một năm sau đó Phương Lan ra đời. Đó là niềm hạnh phúc, là tương lai, hi vọng của ông bà.

“Từ lúc cưới nhau cho đến năm 1970, phần lớn thời gian chúng tôi xa nhau. Chi đi học, tôi đi học, rồi lại đi công tác, sau này cũng vậy. Có lẽ vì ít thời gian bên nhau nên tình cảm của chúng tôi chưa bao giờ thấy phai nhạt”. [1] 

Tiếp sức cho những thành công. 

Sau khi từ Rumani về, ông tiếp tục công tác và làm Trưởng Bộ môn Kết cấu công trình của trường Đại học Thủy lợi. Những tưởng cuộc sống khó khăn đã qua đi và ông bà bắt đầu có những tháng ngày hạnh phúc bên nhau. Nhưng cuộc sống là thế, khó khăn cứ nối tiếp khó khăn, ông bà lại gặp phải nhiều điều không may. Đỉnh điểm là khi ông bị đau cột sống, phải nằm viện điều trị thời gian dài, rồi bệnh đau dạ dày liên tục hành hạ ông và sau đó lại bị viêm gan cấp tính. Để đảm bảo cho sinh hoạt gia đình và chữa bệnh cho chồng, bà đã bán đi các dụng cụ cá nhân quý giá nhất, đó là chiếc máy khâu ông tặng để hàng ngày bà may vá quần áo cho chồng con, đó là những chiếc đĩa hát ông thường nghe để thư giãn sau mỗi ngày lao động mệt mỏi… Ngoài ra, bà còn tranh thủ thời gian ngoài giờ làm việc trồng rau, nuôi vịt, làm bánh bán dọc đường đi làm- một công việc không đáng làm của một nhà giáo lúc bấy giờ. Vì làm nhiều việc nên bà Chi người gầy rạc, có gì cũng gom góp hết cho chồng cho con. Ông thương bà, nhiều đêm không ngủ được, cố nén những giọt nước mắt xót xa. Cả đời ông không thể quên: “Tôi từng nghĩ, ba mợ mình có công sinh thành và nuôi dưỡng mình nên người, còn người đã từng cứu sống cuộc đời mình là Chi”.[2]

     Nghiên cứu sinh Nguyễn Xuân Bảo, tại Rumani, tháng 11-1969

Chính sự chu đáo, sự hi sinh của vợ là một trong những động lực đã khiến ông luôn nỗ lực công tác, có những đóng góp không nhỏ trong nghiên cứu khoa học và quản lý sau này. Ông cho biết “Tôi là một trong 20 người được giữ lại trường Đại học Bách khoa sau đợt thực tập tại Khoa Thủy lợi năm 1959, lúc đó trường Bách Khoa giữ lại 10 người, còn lại là của Trường Tổng hợp”. Ông tự hào rằng mình là người đặt viên gạch đầu tiên xây dựng trường Đại học Thủy Lợi. Với cuốn giáo trình “Bê tông cốt thép” (1956), ông là người đầu tiên nghiên cứu về lĩnh vực xây dựng Thủy lợi và đây cũng là cuốn giáo trình đầu tiên của Bộ môn Kết cấu công trình. Cuốn giáo trình   dùng cho Cao học “Phương pháp sai phân hữu hạn” (1997) là tài liệu không thể thiếu khi học viên học chuyên đề. Với hai giáo trình trên, ông đã góp phần hoàn thiện chương trình đào tạo cho Bộ môn Kết cấu công trình. Ngoài ra, ông có những công trình nghiên cứu khoa học góp phần vào phát triển ngành Thủy lợi như “Phương pháp sai phân hữu hạn và ứng dụng trong tính toán kết cấu công trình”, “Tính toán tường chắc đất”, “Phương pháp phần tử hữu hạn và ứng dụng trong tính toán công trình thủy lợi”…

Ngoài công tác giảng dạy, nghiên cứu khoa học, ông là người có nhiều đóng góp trong quản lý, xây dựng trường Đại học Thủy lợi từ những ngày đầu. Từ việc thiết kế Phòng Thí nghiệm Thủy công tới các Dự án cải thiện sinh hoạt cho cán bộ nhân viên và sinh viên trong trường cũng được ông khởi xướng. Trong đó phải kể đến việc đầu tư Trại bò ở Ninh Bình để cung cấp thêm nguồn thức ăn và cũng là nơi thực tập cho sinh viên cơ khí trong trường. Ông cũng phát động kế hoạch đào ao, nuôi cá, lấy đất đào ao tự nung làm gạch xây nhà vệ sinh khép kín cho khu nhà ở của giảng viên và sinh viên. Căng-tin của trường cũng được ông tham gia thiết kế và đưa vào sử dụng. Năm 1996, Đài Truyền hình Việt Nam có Chương trình “SV96” trường Đại học Thủy lợi đã tham gia và giành được giải nhất, khi đó ông là Hiệu trưởng.

Giờ đây, mặc dù đã nghỉ hưu nhưng ông vẫn theo sát hoạt động của trường. Ông luôn đau đáu một nguyện vọng phân tầng chất lượng trong đào tạo Đại học. Ông nói, ở các nước phát triển điều này thể hiện rất rõ, và nó góp phần vào việc nâng cao chất lượng Đại học. Tuy nhiên, ở Việt Nam vẫn chưa có quy chế cụ thể nào cho việc này.

Khép lại ký ức của mình, ông bộc bạch với chúng tôi: “Sự nghiệp của tôi thành đạt như ngày hôm nay, công đóng góp của vợ là rất lớn. Nếu không về trường Thuỷ lợi để hợp lý hoá gia đình những năm đầu sơ tán, sự nghiệp của bà Chi hẳn đã khác. Bà cũng như nhiều phụ nữ Việt Nam khác, đã coi gia đình, chồng con là sự nghiệp của đời mình”.

Thời gian trôi qua đã lâu, nhưng mỗi khi hồi tưởng lại những tháng ngày gian nan, sự vất vả của bà Chi khiến GS.TS Nguyễn Xuân Bảo không khỏi xúc động. “Thật thiếu sót nếu không nói lời cảm ơn từ đáy lòng mình tới một người đã từng nhiều năm tận trung vất vả, hi sinh tất cả cho gia đình, để tôi an tâm, có nhiều điều kiện và thời gian cho công việc của nhà trường- người đó chính là vợ tôi- Đỗ Phương Chi”. [3]

GS.TS Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Xuân Bảo sinh năm 1938 tại Nghệ An. Ông nguyên là Hiệu trưởng trường Đại học Thủy lợi từ năm 1981-1999.

Với những đóng góp về khoa học và quản lý của mình, ông được Nhà nước phong tặng Danh hiệu Nhà giáo Nhân dân; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Ba; Huân chương Lao động hạng Nhì; Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ; Huy chương Vì sự nghiệp Giáo dục; Huy chương Vì sự nghiệp  Thủy Lợi; Huy chương Vì sự nghiệp Công đoàn…

   

Nguyễn Thị Loan   

Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam

 

[1], [2]: Trích nhật ký của GS.TS Nguyễn Xuân Bảo, ngày 27-7-1996.

 [3]: Trích Bài phát biểu ngày 31-12-1999, tại trường Đại học Thủy lợi.