Cuộc đời bình dị của một nhà Nông học

 Lê Duy Thước sinh ngày 15-5-1918 tại xã Diễn Quảng, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An. Lúc nhỏ học ở Phố Châu, Hương Sơn, Hà Tĩnh, sau học tiểu học ở Diễn Châu, Nghệ An. Năm 1933, khi đang học lớp 6 ở trường tư thục Lyceum Hồng Bàng (đóng ở Hàng Trống, Hà Nội, Hiệu trưởng là ông Leuret), ông đã cùng với bạn thân là Vũ Văn Chuyên[1] tự nguyện xin vào Đoàn Thiếu sinh Hướng đạo Việt Nam (đoàn Hồng Đức, do ông Lê Văn Trác làm trưởng đoàn), ông làm đội trưởng đội Gà, ông Chuyên làm đội viên. Ông là người nhỏ nhất, ngoan nhất đoàn nên được đoàn trưởng và anh em trong đoàn thương mến. Năm 1934, trường Hồng Bàng giải thể, ông xin sang học tiếp lớp 7 ở trường Tư thục Thăng Long (đóng ở phố Ngõ Trạm gần chợ Hàng Da, Hà Nội). Bốn năm học ở trường Thăng Long, Lê Duy Thước được học các thầy Hoàng Minh Giám, Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Bá Húc, Phạm Huy Thông,…, nhờ chăm chỉ học hành, biết vâng lời thầy nên ông luôn là một trong những học sinh giỏi. Ông thi đỗ tú tài phần thứ nhất tại trường Thăng Long, được chọn vào học trường Tây (Lycéc Albert Sarraut). Năm 1938, ông tốt nghiệp tú tài Toán học (Bac.Math) ở trường Anbert Sarraut và được tuyển thẳng vào Đại học Y khoa mà không phải thi tuyển, được học bổng mỗi tháng 25 đồng Đông Dương (ăn cơm trọ chỉ mất 3 đồng). Nhưng cứ như là duyên nghiệp đã định, ông lại xin chuyển trường sang học Cao đẳng Nông nghiệp Jules Brevié Hà Nội (sau là Đại học Canh Nông). Từ đó về sau, ông gắn bó cả đời với đất, với người nông dân…

Một trí thức sớm giác ngộ cách mạng

Từ rất sớm, khi còn là một học sinh, Lê Duy Thước đã tham gia các hoạt động hướng đạo sinh tại Tráng đoàn Lam Sơn do ông Hoàng Đạo Thúy làm đoàn trưởng[2]. Sinh hoạt ngoại khóa là tập luyện, rèn luyện thân thể, làm công tác xã hội: quyên góp quần áo cũ cho người nghèo, truyền bá quốc ngữ,… cắm trại ở những di tích lịch sử, học tập, rèn luyện chí khí, nghị lực, nung nấu trong lòng câu “trai nước Nam làm gì”. Lúc đó các hoạt động hướng đạo được tổ chức sôi nổi khắp ba miền Bắc – Trung – Nam với những người đứng đầu, có vai trò tích cực như: Trần Duy Hưng, Tạ Quang Bửu, Phạm Ngọc Thạch, Kha Vạn Cân,… Sau này, ông nhớ lại: “Sáng nào trời rét cũng như trời ấm, từ 4 giờ 30 sáng, tôi đạp xe đến Văn Miếu, đúng 5 giờ cùng các anh em trong đoàn như: Trần Duy Hưng, Bạch Văn Quế, Lưu Hữu Phước, Tôn Thất Tùng, Dương Đức Hiền, Phạm Biểu Tâm, Lê Văn Trác,… tập thể dục và tập võ dưới sự hướng dẫn của anh Thúy. Anh em chơi thẳng thắn, đi tập đều và rất đúng giờ… Qua hơn 10 năm chơi hướng đạo, từ tuổi thiếu niên (1933-1945), đoàn và đội hướng đạo đã rèn cho tôi tính tự nguyện “chơi thẳng thắn” và tôi nghĩ rằng giáo dục hướng đạo cũng đã tạo nền cho tôi trưởng thành cùng với sự nghiệp cách mạng của dân tộc”[3].

Năm 1943, sau khi tốt nghiệp Kỹ sư canh nông, Lê Duy Thước được chính quyền Pháp bổ nhiệm làm Giám đốc Canh nông tỉnh Quảng Nam (đóng ở Hội An). Dân Quảng Nam khi đó vẫn gọi ông với cái tên “quan kỹ sư” vì cả tỉnh lúc đó chỉ có một quan kỹ sư, cả thị xã Hội An ngạc nhiên khi thấy ông lúc nào cũng sôi nổi, chan hòa, giản dị, hăng hái đạp xe đạp khắp các đồng ruộng trong tỉnh với một niềm say mê. Một năm sau, năm 1944 ông đã hoàn thành công trình nghiên cứu “Quảng Nam Canh nông chí”. Hoạt động nhiệt tình, quan hệ hòa đồng với đồng bào nên ông được ông Tạ Quang Bửu, bấy giờ là Tổng ủy viên hướng đạo miền Trung, kiêm trại trưởng Trại Bạch Mã[4] cử làm Hướng đạo trưởng Hướng đạo Quảng Nam.

 Sau khi Nhật đảo chính Pháp (9-3-1945) ở Hội An, Lê Duy Thước được các đồng chí lớn tuổi như ông Hà Mão (Tham tán tòa sứ Hội An), ông Huỳnh Lý (giáo viên trường Viên Minh, Quảng Nam) giác ngộ cách mạng, mời vào Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Quảng Nam làm Ủy viên tuyên truyền cho cách mạng (Là một tổ chức cách mạng, được thành lập ngay sau ngày 9-3-1945, dưới sự lãnh đạo của Việt Minh (khi đó đang hoạt động bí mật). Ủy ban đóng trụ sở ngay cạnh tòa sứ (công sứ là Fugier Garel), ngày nào dân cũng đến trực tiếp công việc với ủy ban đông hơn đến tòa sứ hay tòa Tổng đốc đóng ở Điện Bàn (Tổng đốc khi đó là Ngô Đình Khôi).

Thời gian từ tháng 5-1945 đến 8-1945, Lê Duy Thước được ông Phan Anh[5] và ông Tạ Quang Bửu giới thiệu vào làm Chánh văn phòng Bộ Thanh niên trong Chính phủ của ông Trần Trọng Kim đóng ở Huế. Khi đó ông Phan Anh làm Bộ trưởng Bộ Thanh niên, ông Tạ Quang Bửu không nhận làm Thứ trưởng Bộ, chỉ nhận làm đặc vụ ủy viên giúp ông Phan Anh.

Đến Cách mạng tháng Tám 1945, ông Tạ Quang Bửu [6] đưa Lê Duy Thước cùng ra Hà Nội, ông được giữ lại làm việc ở Bộ Quốc phòng hai tháng (tháng 9 và 10-1945). Ngày 25-11-1945, ông cùng các ông Trần Duy Hưng, Vương Trọng Thành, Nguyễn Văn Lượng,… đại diện cho Hội Hướng đạo Việt Nam yết kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Bắc Bộ phủ. Đây là lần đầu tiên ông được gặp Bác, sau này ông nhớ lại: “Bác ngồi làm việc ở tầng hai Bắc Bộ phủ, trong một căn phòng hẹp, ở đầu cùng phía bắc. Trán cao, cặp mắt sáng ngời, mái tóc hoa râm, chòm râu chửa bạc. Da mặt xanh xao, Bác vừa bị sốt rét ở Tân Trào về. Bác nhìn ra cửa thấy anh em chúng tôi thấp thó chờ. Bác liền đứng dậy, bảo anh em đi theo Bác sang phòng bên cạnh. Bác ngồi trên ghế, chìa cánh tay trái gầy gò cho bác sĩ tiêm thuốc (có lẽ thuốc bổ) rồi hướng về phía anh em chúng tôi Bác nói vắn tắt: “Hoan hô anh em Hướng đạo đến thăm Bác. Anh em về lo diệt giặc đói, giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm”[7]

Lê Duy Thước (ngoài cùng bên phải) cùng TS Nguyễn Lộc (bên trái)

và cô giáo người Nga thời kỳ học tập ở Liên Xô, 11-1953

 Từ cuối năm 1945 đến 1951, Lê Duy Thước làm việc ở Bộ Canh nông (nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) với các cương vị: Giám đốc Sở doanh điền, Phó Đổng lý sự vụ Bộ. Tháng 8-1947 ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương (do ông Trần Hữu Dực – Bí thư Khu ủy Khu IV kết nạp ở Đô Lương, Nghệ An). Năm 1949, ông hoàn thành cuốn “Cẩm nang doanh điền”. Ngày 9-7-1951, ông cùng với 20 cán bộ thuộc các ngành khác nhau được triệu tập lên An toàn khu ở Việt Bắc chuẩn bị đi học ở Liên Xô. Để gửi gắm 21 học viên này nhờ Nhà nước Liên Xô đào tạo giúp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi ông Xuxlôp một bức thư viết bằng tiếng Pháp và ký tên là “Đin” với nội dung như sau: “Avec la permission du cammarade Staline j’ai l’honneur de vous envouer 21 carmarades Vietnamiens pour l’education politique et technique”[8]. Lời dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh được ông ghi chép trong cuốn sổ nhỏ: “Phải cố gắng học tập, trau dồi tư cách và đạo đức cách mạng để khỏi phụ lòng nuôi nấng, dạy dỗ của Đảng bạn, của Đảng ta, của nhân dân và anh em ở nhà…Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu, ăn nói, cử chỉ, hành động, phải tiêu biểu, phản ánh được dân tộc đang kháng chiến gian khổ. Không phản ánh được điều đó là quên kháng chiến, là sai”[9]

Những lời dặn dò đó được ông khắc sâu trong mỗi hành động, trong học tập cũng như trong công tác sau này. Ông là nhà khoa học có nhiều đóng góp trong khoa học nông nghiệp, là Chủ nhiệm một số Đề tài quan trọng, như “Xây dựng cơ sở khoa học của quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội vùng Tây Nguyên” giai đoạn 1984-1988 (gọi tắt là Chương trình Tây Nguyên II) do Viện Khoa học Việt Nam chủ trì, Chủ nhiệm đề tài “Công tác điều tra nghiên cứu đất ở miền Bắc giai đoạn 1954-1975” (Viện Nông hoá – Thổ nhưỡng chủ trì)…

Một nhà khoa học bình dị

Là một nhà khoa học từng đặt chân đến nhiều nơi, nhiều miền của tổ quốc để nghiên cứu về đất đai, nông nghiệp, lập bản đồ đất, địa hình,… tình yêu với nông dân, với đất đã ngấm vào tận máu thịt của ông. Có lẽ bởi thế, ông có một lối sống hết sức bình dị, mực thước, gần gũi với mọi người. Căn phòng làm việc của ông ở khu tập thể Thành Công chỉ rộng khoảng 10 mét vuông, kê vừa một chiếc giường gỗ, một cái tủ làm bằng gỗ dán, một chiếc bàn làm việc là những vật dụng do Nhà nước trang bị cho ông theo tiêu chuẩn của những năm 1970. Có giá trị nhất trong căn phòng là một giá đựng đầy những cuốn sách bằng tiếng Pháp, tiếng Anh, Nga, Việt, được làm bằng những tấm gỗ thông từ các thùng đựng hàng mang từ Liên Xô về. 

Ông thường đạp xe đạp đi làm hoặc sau này khi đã có tuổi, ông đi đâu đều gọi một người xe ôm chở đi. Ông cho rằng, như thế vừa tiện cho mình lại không phiền phức đến ai. Có lần, vào mùa đông, ông đến giảng dạy cho các nghiên cứu sinh ở Viện Khoa học Việt Nam, đi bằng xe ôm, do tuổi già, bị lạnh đột ngột nên khi đến lớp giảng bài, ông bị ngất ngay tại bục giảng, phải cấp cứu tại Bệnh viện Việt – Xô. Ông sống giản dị hết mực, không câu nệ chuyện ăn uống, có gì ăn đấy, quen chịu kham khổ. Khi đi công tác xa, hoặc đi làm hàng ngày, vợ của ông vẫn thường gói cơm để ông mang theo. Cơm ông ăn thường được bà nấu hơi ướt một chút, sau khi chín bà xới ra và nén chặt thành nắm, để nguội, khi ăn cắt ra từng miếng mỏng chấm với muối vừng[10].

Hình ảnh về người cha, người ông Lê Duy Thước được các con cháu nhớ lại một cách hết sức gần gũi. Ông Nguyễn Xuân Tiệp (con rể) kể lại rằng, có lần ông ghé vào thăm các cháu ngoại, túi quà mang theo là bánh rán, kem, bánh mì ba tê, tất cả khoảng 20.000 đồng. Khi ông Tiệp hỏi: Tiền ở đâu mà ông mua quà cho các cháu nhiều thế? Ông cười rất hóm hỉnh và nói: Hôm nay ông làm Chủ tịch Hội đồng bảo vệ luận án Tiến sĩ, được bồi dưỡng 30.000 đồng và được bồi dưỡng thêm một bát phở nữa[11].

Một lần khác, ông Tiệp đến thăm GS Lê Duy Thước trong căn phòng chật hẹp ở khu tập thể Thành Công, vừa bước vào nhà thì thấy bố mình tiễn một người khách ra cửa. Khi quay trở lại, GS Thước nói: Anh ấy là thư ký của ông, đến lấy bài viết. Ông Tiệp hỏi: Bài của ông bao nhiêu trang? Ông trả lời: 30 trang, khoảng 25.000-30.000 từ. Ông Tiệp tiếp lời: Ông được trả bao nhiêu tiền nhuận bút? Ông nói: 30.000 đồng. Ông Tiệp lắc đầu: Ông ơi, để con đến xin lại bài của ông, con sẽ trả ông 200.000, bởi vì con chỉ viết cho báo Nhân dân bài 2000-2.500 từ đã có 100.000 rồi cơ mà, sao họ trả cho ông rẻ thế, vì bài của ông còn có giá trị khoa học, ông phải đọc nhiều sách mới viết được. Ông cười vui vẻ: tốt rồi con ạ, không sao đâu[12].

GS.TS Lê Duy Thước luôn được người thân bạn bè, đồng nghiệp nhắc đến với hình ảnh một nhà nông nghiệp bình dị, mực thước. Tình yêu với đất với người của ông sẽ được các hệ sau ghi nhận và tiếp nối.

 Nguyễn Thanh Hóa

_____________________

 [1] GS Vũ Văn Chuyên (sinh năm 1922) – nguyên Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Dược liệu.

[2] Thời kỳ đó, Hướng đạo Việt Nam tổ chức được 3 cấp theo độ tuổi: Ấu, Thiếu và Tráng. Tráng đoàn Lam Sơn, một trong những tráng đoàn đầu tiên, trụ cột của phong trào Hướng đạo Việt Nam tại miền Bắc do chính Hoàng Đạo Thúy hướng dẫn. Sau năm 1946, ông ông được phân công làm Cục trưởng Chính trị Cục (tháng 3 đến 5-1946), Giám đốc trường võ bị Trần Quốc Tuấn (1946-1948), Cục trưởng Cục Giao thông công binh, Cục trưởng Cục Quân huấn.

[3] Trích bài: Lê Duy Thước – Giáo sư Nông học, Nhà giáo Nhân dân, Tạp chí Xưa và Nay, số ra 1997.

[4] Trại Huấn luyện toàn quốc của Hướng đạo Việt Nam, trại nằm gần đỉnh núi Bạch Mã, giữa Huế và Đà Nẵng.

[5] Luật sư Phan Anh (1912-1990): Giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (sau kỳ họp của Quốc hội khóa I, ngày 6-1-1946). Sau này ông còn giữ các vị trí: Bộ trưởng Bộ Kinh tế (từ tháng 5 năm 1951 đổi tên là Bộ Công thương), Bộ trưởng Bộ Thương nghiệp (từ tháng 9 năm 1955 đến tháng 4 năm 1958), Bộ trưởng Bộ Ngoại thương (từ tháng 4 năm 1958 đến năm 1976) trong Chính phủ Việt Nam, Phó Chủ tịch Quốc hội Việt Nam.

[6] Từ tháng 9 năm 1945 đến tháng 1 năm 1946, Tạ Quang Bửu đảm nhận chức vụ Tham nghị trưởng Bộ Ngoại giao trong Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, rồi Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.

[7] Theo Tạp chí Xưa và Nay, số ra năm 1997.

[8]Tạm dịch: Được phép của đồng chí Stalin, tôi hân hạnh gửi 21 đồng chí Việt Nam để được giáo dục về chính trị và kỹ thuật. Bức thư trích theo Tạp chí Xưa và Nay, 1997.

[9] Trích ghi chép của GS Lê Duy Thước trong sổ Nhật ký, 1951.

[10] Tham khảo trong: Viết về ông ngoại – GS.TS.NGND Lê Duy Thước, 2006, tr.62.

[11] Tham khảo trong: Viết về ông ngoại – GS.TS.NGND Lê Duy Thước, 2006, tr.44.

[12] Tham khảo trong: Viết về ông ngoại – GS.TS.NGND Lê Duy Thước, 2006, tr.45.