Giáo sư Đặng Văn Chung – Chặng đường đầu lập thân

1-Từ bước khởi đầu vững chắc…

Ông quê ở Sa Đéc – Đồng Tháp nhưng sinh tại Nha Trang, vào ngày 08-03-1913, trong một gia đình tiểu tư sản viên chức, cụ thân sinh làm nhân viên bưu điện tại phường đệ nhất – Xương Huân. Thời ấu thơ của Đặng Văn Chung gắn liền với mảnh đất mang nhiều ưu đãi từ thiên nhiên – nơi có cảnh sắc tươi đẹp cùng khí hậu biển quanh năm dịu mát. Và có lẽ sự thơ mộng, hiền hòa của Nha Trang ít nhiều ảnh hưởng đến phong thái Đặng Văn Chung sau này – một phong thái dung dị, nhẹ nhàng đầy tình cảm.

Đặng Văn Chung sinh ra cũng là lúc nền Hán học ở Việt Nam đã bị thực dân Pháp làm cho suy yếu, tàn lụi và chính thức cáo chung với khoa thi Hội cuối cùng tại Huế. Thay vào đó, một nền giáo dục kiểu Pháp đã được hình thành song song với quá trình chiếm toàn cõi Nam kỳ.

GS Đặng Văn Chung trong những năm học Đại học Y

 Năm 12 tuổi (1925), Đặng Văn Chung bắt đầu học phổ thông tại Củ Chi. Ngôi trường mà ông theo học nằm cách Sài Gòn 34 km, gồm 2 lớp học – mỗi lớp có khoảng 30 học sinh và 1 giáo viên phụ trách giảng dạy. Trong Hồi ký của mình, ông viết: “Học lớp đó, tôi là học sinh giỏi nên được thưởng 1 cái đồng hồ trái quýt và sau đó thi đỗ Certificat élémentaire (hết cấp sơ đẳng tiểu học– TG), rồi được học bổng xuống học trường Marc Ferrando tại Bà Chiểu”[1]. Ông đã học rất tốt và từng được giải thưởng trong cuộc thi toàn quốc do Hãng Tem Chống lao tổ chức. Cùng năm đó, ông thi đỗ bằng tiểu học và thi vào trường Phổ thông cấp 2 Chasseloup Laubat – là ngôi trường được người Pháp xây dựng năm 1874, tại Sài Gòn. Tại đây, Đặng Văn Chung học cùng lớp với Quốc vương Campuchia – Norodom Sihanouk, và có những kỷ niệm đáng nhớ thủa học trò“cùng nhau đá bóng chân không ở sân trường”[2].

Học hết năm đầu tiên tại Chasseloup Laubat, tháng 9-1927 lớp của Đặng Văn Chung được chuyển sang trường Petrus Ký – lúc này có tên là Collège de Cochinchine (một phân hiệu tạm thời của trường Chasseloup Laubat tại Chợ Quán, dành cho người bản xứ). Đây là một ngôi trường mới, được xây dựng ở khu đất rộng mênh mông với đầy đủ cung cách của một khu học đường trang nghiêm yên tĩnh nằm giữa địa phận Sài Gòn và Chợ Lớn, “gồm nhiều nhà 2 tầng và các lớp học, có 1 sân thể dục, sân đá bóng và 1 vài sân đánh bóng (Tennis – TG)[3]. Có thể nói, đây là một môi trường học tập rất lý tưởng bởi được trang bị cơ sở vật chất đầy đủ, ngăn nắp và hết sức khoa học, bao gồm các phòng học, phòng labo, phòng ở nội trú… Cùng với đó, đội ngũ giáo viên chủ yếu là người Pháp và một số ít giáo sư người Việt giảng dạy có trình độ tốt. Đặc biệt, trong ký ức của Đặng Văn Chung thì “Các thầy rất hiền lành và nghiêm túc”. Ở môi trường học tập tốt, lại đồng học với Phạm Quang Lễ (GS.VS Trần Đại Nghĩa), Nguyễn Tấn Gi Trọng là những học sinh ưu tú đã có ảnh hưởng tốt tới Đặng Văn Chung: “Giỏi nhất là Phạm Quang Lễ về Toán. Ở trường trung học mà anh Lễ đã học sách toán cao cấp”[4]. Đặng Văn Chung học tốt các môn Pháp văn, Toán học, Vật lý, Hóa học và cũng thể hiện được sự nổi trội của mình trong lớp: “Về Triết học và Pháp văn cũng như Thể dục – Thể thao: đá bóng, tennis… tôi là người đứng đầu lớp”[5]. Năm 1931, Đặng Văn Chung hoàn thành kỳ thi tốt nghiệp với số điểm cao và được cấp bằng Tú tài bản xứ, ông khăn gói lên đường ra Bắc để học Đại học.

2- Đến con đường lập thân lập nghiệp

 Chắc chắn rằng, đã có một cuộc đấu tranh tư tưởng trong con người Đặng Văn Chung khi mà việc đầu tiên – quan trọng nhất là lựa chọn ngành học. Thời kỳ đó, nước ta chỉ có vài trường Đại học và Cao đẳng thuộc các lĩnh vực như: Y, Sư phạm, Canh nông, Công chính và Mỹ thuật… Ngoài trường Y đào tạo ra y sỹ, còn có trường Luật đào tạo công chức hành chính cho Pháp (Tri phủ, tri huyện), tức là các quan chức cai trị cho chính quyền Pháp. Đặng Văn Chung quyết định chọn ngành Y, và để giải thích thêm cho lựa chọn này, ông bày tỏ suy nghĩ của mình: “Nghề Y quan hệ mật thiết với sinh mạng con người, nguồn gốc là khoa học, là một nghề nghiệp để thu nhập… Nghề Y, lúc học nghề – học trên con người, lúc hành nghề – trên con người, lúc sống – trên người bệnh”[6].

Tuy vậy, bước khởi đầu của ông nơi đất khách quê người cũng không được “thuận buồm xuôi gió”. Sau khi ra Hà Nội học dự bị Đại học, ông bị ốm nên học chậm mất 1 năm. Đến năm 1933, ông thi đỗ vào trường Đại học Y Dược khoa Đông Dương (nay là trường Đại học Y Hà Nội). Học đến năm thứ 2 thì ông được hưởng phụ cấp 12 đồng Đông Dương mỗi tháng. Năm 1937 ông thi đỗ trong kỳ thi tuyển bác sĩ nội trú làm việc tại Bệnh viện Bạch Mai, được ăn ở tại Bệnh viện, làm công việc của một nhân viên phòng Salle de garde – Phòng trực và đón tiếp bệnh nhân.

Lời thề Hipocrates được Đặng Văn Chung viết nắn nót trong nhật ký, 1938-1945

Trong cuốn sổ viết tay sơ thảo những nội dung để ông viết hồi ký, có một nội dung đáng chú ý: “Bừng mắt dậy từ những chuyện bất công”. Đó là khoảng thời gian Đặng Văn Chung là một bác sỹ nội trú trẻ về làm việc tại một Bệnh viện tuềnh toàng, chỉ có nhà hộ sinh là được tổ chức tốt nhất nên người giàu có hay người nghèo, các sản phụ đều đến sinh con ở đây. Vào một đêm đông:“Hôm đó là ngày thứ bảy, mùa đông lạnh, mưa lất phất. Đêm đã khuya, tôi lúc đỡ bận rộn, ra trước sân nhìn trời. Từ trong phòng hộ sinh ra khỏi cửa, hai gia đình có cháu mới sinh ra về làm tôi chú ý rồi hết buồn ngủ.  

Đi trước là 1 gia đình gồm 3 người ăn mặc ấm áp, bọc em bé bằng tấm mền bọc lụa, ung dung đi ra bệnh viện. Theo sau là 1 người phụ nữ nghèo nàn, tóc rối nhưng gọn ghẽ, mặc áo nâu ngắn, váy nâu bế 1 em bé được quấn bằng áo nâu dài của mẹ. Có vẻ không được ấm nên bà mẹ hay đứng lại gói ghém em bé cho gọn gàng rồi mới chậm rãi bước theo con đường không có đèn. 

Chỉ ra tới cổng bệnh viện thì có ô tô ấm áp đưa em bé về nhà, còn em kia thì phải chịu sự lạnh lẽo nằm trong áo vải của mẹ, đi qua đồng trống để về nhà. 

 Nhìn hai em bé, lòng tôi se lại buồn bã. Cùng mới ra đời mà phải chịu số phận quá khác nhau: 1 em được lụa là bao bọc, ấm áp; 1 em thì được bọc bằng tấm áo nâu rách của bà mẹ. Tôi tự hỏi: Tại sao cùng mới chào đời lại chịu sự khác nhau? Do xã hội, do chế độ này sinh ra! Rồi đây còn chịu bao nhiêu thiếu thốn, khổ sở nữa?

Tôi suy nghĩ tại sao có sự bất công từ lúc mới lọt lòng mẹ? Chắc chắn không phải lỗi tại chúng nó, mà tại con người của Xã hội. Tôi suy nghĩ làm cách nào giảm sự bất công đó.” [7]

Suy nghĩ về hình ảnh tương phản của 2 sinh linh nhỏ bé vừa cất tiếng khóc chào đời, có thể coi là một bước chuyển biến trong tư tưởng của Đặng Văn Chung. Vào cuối thập niên 30 thế kỷ trước, đất nước ta còn đang dưới ách đô hộ của Pháp. Hơn ai hết, ông hiểu được sự phân hóa giai cấp một cách rõ rệt dưới xã hội đó, càng thấu hiểu sâu sắc nỗi thống khổ đến cùng cực của tầng lớp nông dân và người dân lao động. Từ sự bất công trong cái xã hội phong kiến nửa thuộc địa đương thời, Đặng Văn Chung ý thức được sứ mệnh của mình – dù là nhỏ, nhưng ông mong muốn góp phần nào đó giảm sự bất công trong xã hội. Và bằng hành động thực tế, ngoài thời gian làm việc trong bệnh viện, thay vì đến rạp chiếu bóng để xem những bộ phim kinh điển của điện ảnh thế giới lúc bấy giờ (Thời sinh viên, Đặng Văn Chung thường tới rạp chiếu phim, ông rất thích bộ phim Escadron blanc – của đạo diễn A. Gemina, được cúp Mussolini cho phim Ý hay nhất năm 1936), ông cùng các bạn đồng nghiệp đạp xe đến các xóm làng ngoại thành Hà Nội để “tuyên truyền phòng bệnh” cho dân nghèo (năm 1940). Sau đó, ông có tham gia Hội trại thanh niên suối Lồ Ô (1943) với nhiệm vụ tổ chức chỗ ăn, ở cho học sinh, sinh viên miền Nam để giáo dục tinh thần yêu nước, rèn luyện phẩm chất, rèn luyện thân thể…

Có thể nói, môi trường đào tạo dưới thời Pháp đô hộ vào nửa đầu thế kỷ 20 đã góp phần quan trọng tạo dựng nền tảng tri thức cho người trí thức trẻ Đặng Văn Chung. Thế nhưng, sâu thẳm trong con người ông hội tụ một nhân cách, một tâm hồn Việt giàu lòng yêu nước, thương người. Chính vì vậy, trên dặm dài của con đường lập thân – lập nghiệp, Đặng Văn Chung luôn nỗ lực học tập vươn lên để trở thành một người trí thức có ích cho dân tộc, và kim chỉ nam xuyên suốt những năm tháng ông cống hiến cho nghề chính là tinh thần Hipocrates – tinh thần Y đức sáng ngời. 

Đỗ Minh Khôi

____________________

[1] Hồi ký “Tôi đi học Phổ thông thế nào? 1925-1928” của GS Đặng Văn Chung.

[2] nt

[3] nt

[4] nt

[5] nt

[6] Hồi ký “Vài suy nghĩ về ngành Y”.

[7] Hồi ký “Vài mẩu chuyện làm tôi suy nghĩ lúc còn đi học”.