Xuất thân trong gia đình có bố làm quan, Phan Trường Phiệt được gọi là cậu ấm, được bố mẹ chiều chuộng như “vua con” trong nhà và không thiếu bất cứ thứ gì. Nhưng rồi, biến cố xã hội làm cho hoàn cảnh gia đình cũng thay đổi. Và Phan Trường Phiệt quyết đinh tiếp tục học tập tại Hà Nội.
Năm 1955-1956, Phan Trường Phiệt học lớp Dự bị Đại học (bao gồm các môn Toán, Lý, Hóa, Văn, Sử, Địa) tại trường Trung học Phổ thông Hà Nội (nay là Trường trung học phổ thông Việt – Đức). Tại lớp Dự bị Đại học này, những học sinh ở vùng kháng chiến, không có học bổng và hoàn cảnh thì khó khăn như Phan trường Phiệt khá nhiều. Chính vì thế nên ông và một số bạn đã viết đơn gửi Sở Giáo dục xin mở trường Bổ túc văn hóa vào buổi tối, một phần giúp những người lao động có điều kiện được học tập (dạy từ lớp năm đến lớp tám), một phần giúp cho những sinh viên như ông có tiền trang trải cuộc sống. Ông có nhiệm vụ viết đơn, còn các bạn khác thì tìm địa điểm và quảng cáo. Trường được lấy tên là trường Cấp Tiến và có trụ sở ở Hàng Chiếu. Trường được mở và Phan Trường Phiệt làm Hiệu trưởng, những người học xong chương trình được cấp Giấy chứng nhận của Sở Giáo dục .
Vốn yêu thích Khoa học kỹ thuật nên năm 1956 sau khi học xong lớp Dự bị Đại học, ông đăng ký nguyện vọng học Vô tuyến điện của trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Nhưng khi nhận quyết định vào học thì ông lại có tên trong danh sách sinh viên Khoa Xây dựng.
Sau khi học một thời gian, nhận thấy chương trình các môn như Toán, Lý, Hóa đã được học ở lớp dự bị Đại học nên một số sinh viên đã kịến nghị lên Bộ Đại học đề nghị mở năm thứ 2 vì họ có khả năng theo học. Để giải quyết vấn đề này, Bộ đã đồng ý miễn không phải học 3 môn: Toán, Lý, Hóa cho những sinh viên đã tốt nghiệp lớp Dự bị Đại học, nhưng cuối năm học vẫn phải tham gia thi hết môn. Điều này đã tạo điều kiện cho sinh viên Phan Trường Phiệt có thời gian để phụ giúp gia đình nuôi dạy các em ăn học.
Học bổng chỉ có 22đ/tháng, hàng ngày, ngoài giờ lên lớp, Phan Trường Phiệt đi làm thêm ở công trường sửa chữa tòa nhà Bưu điện ở phố Ông Ích Khiêm: "Tôi nhận với cơ quan Bưu điện hợp đồng công mua sắm toàn bộ nguyên vật liệu tập kết tại công trường, công trông nom kỹ thuật với tỉ lệ 5% vốn đầu tư. Sở dĩ tôi được tin tưởng vì trước đó, tôi đã sửa chữa tốt một tòa nhà gần Đại sứ quán Trung Quốc"[1]. Các môn học được xếp theo thời khóa biểu, vì vậy đến môn không phải học, Phan Trường Phiệt lại nhẹ nhàng trèo cửa sổ lớp học, ra ngoài để đi làm thêm, từ đó nên ông có biệt danh là “sinh viên trèo cửa sổ”. Cũng có những hôm không phải đi làm, ông ở lại để nghe giảng. Trong một lần được nghe giảng về Cơ học lý thuyết do thầy Nguyễn Văn Đạo dạy, ông đã phát biểu ý kiến. Với cách trình bày rõ ràng, chững chạc, ông được thầy khen ngợi và cũng từ đây các bạn biết đến ông nhiều hơn, họ khâm phục ông vì được miễn học nhưng thỉnh thoảng vẫn dự giờ các môn Toán, Lý, Hóa.
Năm 1958 Nhà nước xây dựng Hệ thống Thủy lợi Bắc Hưng Hải để cung cấp nước cho những vùng Bắc Giang, Hưng Yên, Hải Dương, Hà Nội. Đây là công trình Thủy lợi lớn nhất miền Bắc lúc bấy giờ, sự kiện này được tuyên truyền rầm rộ và Bác Hồ đến tận nơi động viên. Thời kỳ này do thiếu thốn về máy móc nên lần đầu tiên, Nhà nước đã huy động hàng vạn nhân công bao gồm công nhân, bộ đội, sinh viên, trí thức tham gia lao động.
GS.TS Phan Trường Phiệt mô tả về "công trình cửa lấy vữa hình nêm"
theo sáng kiến của ông
Thời điểm này sinh viên năm thứ 2 Đại học Bách khoa cũng tham gia lao động ở công trường Bắc Hưng Hải: đào đất, gánh đất, trộn bê tông, làm sắt thép cùng với công nhân. Trong 3 tháng tham gia lao động, sinh viên được công trường tổ chức ăn ở chu đáo. Bốn dãy lán dựng gần cạnh sông Hồng là nơi ăn ở của họ, có cả trạm bưu điện, trạm y tế.
Phan Trường Phiệt được phân công về đội bê tông. Trong thực tế lao động, ông đã có một “công trình” nhỏ: cửa lấy vữa hình nêm. Bê tông sau khi đã trộn được cho vào một cái thùng to để sử dụng dần, và phía dưới thân thùng có một cái cửa để vữa chảy ra. Ông quan sát và thấy rằng cánh cửa đó được thiết kế thẳng, nên khi công nhân lấy vữa thì phải dùng lực rất nhiều mới mở được cửa. Ông đã thiết kế và đề xuất với thầy Bùi Trọng Lựu về việc cải tiến cửa theo nguyên tắc của cái nêm để lợi dụng lực đẩy ngược của áp lực vữa lên cửa, giảm sức của người lao động khi mở cửa lấy vữa. Ý tưởng này của ông được Ban Kỹ thuật của công trường đồng ý ngay và đã tạo điều kiện để ông xuống tổ mộc thực hiện.
Ông còn nhớ, tại buổi thử nghiệm có rất nhiều người đến xem, ông rất hồi hộp nhưng mọi chuyện đều diễn ra suôn sẻ khi một cô công nhân chỉ dùng tay kéo nhẹ thì cửa đã mở. “Tôi rất vui vì lần đầu tiên trong đời mình đã góp phần nhỏ bé để cải thiện điều kiện lao động cho công nhân. Tôi tự tin hơn trong lao động.”[2]
Đến năm 1959, bắt đầu vào năm học thứ 4, sinh viên Khóa 1 được chia thành 4 nhóm: Một số được chọn đi học tiếp Đại học ở Liên Xô, và sau này về công tác ở trường Đại học Bách khoa Hà Nội; Một nhóm khác được đi học tiếp Đại học ở Trung Quốc, và sau này về công tác ở Học viện Thủy Lợi (nay là trường Đại học Thủy Lợi), Trung cấp Thủy lợi; Nhóm 3 ra công tác ở các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp và số còn lại tiếp tục học tập tại trường Đại học Bách khoa.
Đúng với nguyện vọng, Phan Trường Phiệt được phân công công tác tại Học viện Thủy lợi (thời điểm này, những người được phân công về Học viện đã tham gia xây dựng Nhà trường từ buổi đầu thành lập). Lý giải về việc được về Học viện Thủy lợi công tác, GS Phan Trường Phiệt cho rằng: Có thể họ thấy được năng lực của tôi giỏi, kèm theo việc tôi đã từng đi dạy ở Trường Cấp Tiến nên Nhà trường đã để tôi ra công tác. Tôi mãn nguyện vì tôi chỉ mong sớm đi làm kiếm tiền nuôi các em ăn học. Vậy là kết thúc cuộc đời sinh viên Đại học Bách khoa Khóa 1, với bao vất vả, khó khăn nhưng cuối cùng tôi cũng đã đạt được thành công nhất định.
Nguyễn Thị Phương Thúy
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam