“Bén duyên” với chuột, rồi đi tìm cá
Sinh ra ở xã Yên Sơn (Đô Lương, Nghệ An), từ nhỏ Nguyễn Thái Tự đã nổi tiếng học giỏi, có chí phấn đấu hơn người. Lên cấp 3, Nguyễn Thái Tự cùng em trai xuống TP Vinh học tại Trường cấp 3 Huỳnh Thúc Kháng. Hoàn cảnh gia đình khó khăn, buổi đến trường, buổi làm thuê để kiếm tiền ăn học, nhưng Nguyễn Thái Tự luôn là học sinh xuất sắc.
Khi thi vào ĐH Tổng hợp Hà Nội, Nguyễn Thái Tự đã chọn Khoa Vạn vật học, với mong muốn nghiên cứu về các loài vật, để làm được điều gì đó cho quê hương, nơi mà người dân vẫn đang chủ yếu sống bằng nghề nông.
Tiến sĩ Nguyễn Thái Tự có gần 200 tiêu bản các loài cá,
nhiều loài mới được thế giới công nhận
Nguyễn Thái Tự bắt đầu đam mê nghiên cứu của mình từ con chuột! Thủơ ấy, ngày ngày cậu sinh viên đi rình ở các kho lương thực để tóm chuột về làm mẫu nghiên cứu. Một hôm, Tự tóm được con chuột cống, nhưng trời đã tối, cậu sinh viên đành nhốt tạm vào cái lồng sắt để ngoài trời. Sáng ra, lồng vẫn nguyên, mà chuột không thấy đâu nữa. Nhìn kỹ thì biết chú chuột cống tẩu thoát bằng cách chui qua cái lỗ bé hơn kích thước của nó rất nhiều.
Từ đó, Nguyễn Thái Tự đã phát hiện ra khả năng co nhỏ mình của loài chuột, nhằm tiết kiệm sức lực lúc đào hàng trú ẩn. Cũng chính nhờ phát hiện này Nguyễn Thái Tự đã được cố giáo sư đầu ngành về động vật học Đào Văn Tiến nhận là học trò ruột.
Tốt nghiệp ĐH, Nguyễn Thái Tự được phân công về giảng dạy tại trường ĐH Vinh. Trở thành thầy giáo, bên cạnh việc giảng dạy, thầy giáo Tự tiếp tục tâm huyết với những công trình nghiên cứu khoa học về loài gặm nhấm.
Năm 1974, do kinh tế khó khăn, việc nghiên cứu về loài chuột đành phải tạm dừng. Ông chuyển sang nghiên cứu các loài cá nước ngọt vì cá có sẵn, việc đánh bắt rất dễ dàng. Đặc biệt phòng thí nghiệm tự nhiên khổng lồ là dòng sông Lam sẽ là nơi Nguyễn Thái Tự tìm được rất nhiều điều mới lạ.
“Công trình cá nước ngọt sông Lam” hoàn thành, được giới khoa học đánh giá cao, là kết quả của những ngày tháng thầy và trò lăn lộn khắp sông suối, cùng ăn, cùng ngủ, cùng làm với ngư dân, từ nơi hợp lưu dòng Nậm Nơn, Nậm Mộ thành dòng sông Lam tại ngã 3 Cửa Rào (Tương Dương) về tận Cửa Hội (TP Vinh).
Loài cá mới được thế giới đặt tên “Tự”!
Kể từ đó, Nguyễn Thái Tự ăn sông, ở rừng, miệt mài đi tìm cá. Năm 1992, khi giáo sư Nguyễn Văn Hiệu khởi dựng chương trình “Nghiên cứu khoa học cơ bản trong lĩnh vực khoa học tự nhiên”, Nguyễn Thái Tự được tham gia với cương vị Chủ nhiệm đề tài cấp nhà nước “Bảo tồn đa dạng sinh học Bắc Trường Sơn” kéo dài 14 năm.
Một số mẫu tiêu bản cá của Tiến sĩ Nguyễn Thái Tự
Nổi bật nhất trong đề tài này là công bố về các loài cá nước ngọt ở Phong Nha – Kẻ Bàng. Bên cạnh đó ông lần lượt cho ra đời các công trình như: “Bảo tồn đa dạng sinh học cá vùng núi đá vôi Phong Nha – Kẻ Bàng”, “Nguồn lợi cá và bảo vệ loài cá ở Vũ Quang (Hà Tĩnh)”, “Khu hệ cá Bến En”, “Một họ cá, một khu địa động vật quan trọng với nghề cá Việt Nam”… được quôc tế ghi nhận, nhiều nhà khoa học trên thế giới tìm đến ĐH Sư phạm Vinh để hợp tác.
Năm 1992, tiến sĩ John Mackinnon – trưởng đoàn khảo sát đa dạng sinh học khu bảo tồn thiên nhiên Vũ Quang của Quỹ Bảo tồn động vật hoang dã thế giới tại Việt Nam (WWF) cùng ông Tự và một kiểm lâm thả lưới trên sông. Khi anh kiểm lâm gỡ lưới đưa ra 1 con cá La Giang lấp lánh màu hồng cánh sen, ông Tự thốt lên: “Ồ, đây lại là loài cá mới”! Nhưng vị chuyên gia nước ngoài không tin và nói “Đây là loài mới của ông Tự thôi”!
Để chứng minh cho nhận định của mình, trong suốt 3 năm trời từ 1993-1995 ông Tự liên tục nghiền ngẫm, phân tích rồi trao đổi thư từ với tạp chí Cá nước ngọt thế giới, loài cá La Giang mà ông tìm được ở miền Trung được công nhận là loài mới của thế giới.
Lúc này, tiến sĩ John Mackinnon hết sức khâm phục và tạo điều kiện cho ông Tự nghiên cứu đề tài “Bảo tồn tính độc đáo của khu hệ cá núi đá vôi Phong Nha – Kẻ Bàng”. Đến năm 2007, loài cá mới La Giang được các nhà khoa học đưa vào sách đỏ với tên Parazacco vuquangensis, Tự, 1995”.
Tại vùng đá vôi Phong Nha – Kẻ Bàng, TS. Tự và cộng sự còn tìm ra nhiều loài cá mới cho thế giới, trong đó có cá chép hoa và ông đã đặt tên khoa học cho nó là Cyprimus hieni (đặt theo tên cụ thân sinh Nguyễn Thái Hiến). Ông cũng đã chứng minh Phong Nha – Kẻ Bàng là trung tâm phát sinh thứ tư của chi cá chép Cyprimus và là trung tâm phát sinh của tộc cá diếc.
Hiện tại, trong hơn 500 loài cá nước ngọt được ghi nhận ở Việt Nam, TS Tự đã tìm được 162 loài ở Phong Nha – Kẻ Bàng. Dù tuổi đã cao nhưng mỗi khi được mời tham dự các hội thảo khoa học, TS Nguyễn Thái Tự đều nhiệt tình tham gia, để chia sẻ những kinh nghiệm, kết quả nghiên cứu khoa học của mình với các đồng nghiệp, các nhà quản lý để từ đó họ có biện pháp bảo vệ sự đa dạng sinh học của các loài cá nước ngọt.
Người Việt ai cũng có một phòng thí nghiệm tuyệt vời!
Sau phát hiện 162 loài cá nước ngọt ở Phong Nha – Kẻ Bàng trong tổng số 544 loài của cả nước; 72 công trình khoa học cấp quốc gia và quốc tế; 10 cuốn sách nghiên cứu về cá, trong đó có những giáo trình về động vật chí VN, thực vật chí VN, sách đỏ và danh mục đỏ VN, ngày 20-1-2012 nhà ngư loại học Nguyễn Thái Tự được Chủ tịch nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ.
Tạm gác lại câu chuyện về những con cá, TS. Nguyễn Thái Tự chia sẻ những trăn trở đau đáu với nghề dạy học. TS Tự cho rằng nghề dạy học thông qua việc truyền thụ tri thức bộ môn khơi gợi niềm đam mê học tập và tạo lập cho học sinh, sinh viên phương pháp tư duy khoa học.
Sinh viên có sức trẻ, ham hiểu biết, và giàu ước mơ khát vọng, đó là tiềm năng to lớn của mỗi thầy giáo, là lợi thế của người dạy, để trao truyền niềm đam mê khoa học cho các em. Làm được điều đó, trước hết bản thân thầy giáo phải thực sự đam mê khoa học, gắn việc đào tạo với nghiên cứu khoa học.
TS. Nguyễn Thái Tự nhắc lại chỉ thị “Kết hợp giảng dạy với nghiên cứu khoa học phục vụ thực tiễn” của cố GS. Tạ Quang Bửu và khẳng định “đó là nguyên lý giáo dục xuyên suốt từ thập kỷ 70-80 của thế kỷ XX đến nay vẫn nguyên giá trị”.
Trường Đại học, là nơi dùng chất xám của thầy và trò, đáp ứng những yêu cầu bức thiết mà thực tiễn xã hội đang đặt ra; để sinh viên trăn trở với những vấn đề thực tiễn của đất nước, mà chung tay giải quyết vấn đề và cùng tiến bộ, và đào tạo ra một tầng lớp trí thức trẻ đủ sức giải quyết những vấn đề kinh tế – xã hội của đất nước.
Ngược lại, xã hội có nghĩa vụ cung cấp tài chính cho các trường ĐH. “Các vườn quốc gia Bến En, Vũ Quang, Phong Nha – Kẻ Bàng, Bạch Mã và các tổ chức quốc tế như WWF, FFI, SIDA, VNRP… đã cung cấp tài chính cho thầy trò chúng tôi nghiên cứu theo đơn đặt hàng của họ.
Qua đó mà trình độ của thầy trò chúng tôi được nâng cao, uy tín được khẳng định, nhiều đại sứ quán tại Việt Nam cũng tài trợ cho chúng tôi. Như thế, sinh viên, nghiên cứu sinh làm nghiên cứu khoa học vừa có kiến thức lại còn được trả công”.
Sau bao nhiêu năm làm nghiên cứu, TS. Tự khẳng định “Thiên nhiên đa dạng sinh học Việt Nam là một phòng thí nghiệm tuyệt vời mà nhiều nước giàu có trên thế giới ao ước cũng không thể nào có được!
Tại sao phương Tây bỏ tiền ra đến đất nước mình nghiên cứu, mà mình lại không biết sử dụng mỏ vàng gần gũi ngay trước mắt này? Nếu biết quan sát và chịu khó suy ngẫm, thì dù ở trong rừng sâu hay một góc vườn, ta đều có thể rút ra nhiều bài học bổ ích và lý thú, cho các cháu từ mẫu giáo đến các vị giáo sư đầu bạc”.
Với ông Tự, việc trở về quê hương để nghiên cứu, giảng dạy là nhằm phục vụ cho nơi mình đã sinh ra, lớn lên là quyết định chưa bao giờ hối tiếc.
Hãy “ta về ta tắm ao ta”, hãy khai thác phòng thí nghiệm vô giá được đặc ân ban tặng và cha ông ta ngàn đời này cố gắng giữ gìn để trao cho chúng ta ngày hôm nay, và đừng hủy hoại nó, chúng ta phải có trách nhiệm bảo tồn, để tiếp tục trao lại cho con cháu mai sau.
Hồ Lài
Nguồn:http://giaoducthoidai.vn/giao-duc;
http://vinhuni.edu.vn/diem-bao