Bà Vi Nguyệt Hồ xuất thân từ một gia đình quyền thế. Dòng họ Vi có ba người phụ nữ là phu nhân của ba trí thức lớn nổi tiếng, Vi Kim Ngọc (phu nhân của GS Nguyễn Văn Huyên); Vi Kim Phú (phu nhân GS Hồ Đắc Di); và bà Vi Nguyệt Hồ (phu nhân GS Tôn Thất Tùng). Qua những thông tin của người thân trong gia đình bà Hồ kể lại, mối nhân duyên của hai ông bà bắt đầu tại lễ đầy tháng con của bác sĩ Hồ Đắc Di ở số 75 Hàng Bông. Cảm nhận được hai người đang “phải lòng” nhau nên “cụ Di” nhiều lần cố ý tác thành cho đôi bạn trẻ.
Một tình yêu không giới hạn tuổi tác giữa cô tiểu thư “danh gia vọng tộc” mới 15 tuổi – Vi Nguyệt Hồ, và chàng bác sĩ “Tây học” Tôn Thất Tùng 34 tuổi đã chớm nở ngay từ cái nhìn đầu tiên. Sau thời gian tìm hiểu nhau, ngày 25-11-1944 lễ thành hôn của hai người đã được tổ chức tại số nhà 59 phố Nguyễn Du, Hà Nội trong niềm vui và sự ủng hộ của gia đình, bạn bè. Bà e thẹn “Mến anh như một người lớn và đến lúc dậy thì tình yêu chớm nở, đó là mối tình đầu”[1] và những cảm nhận nguyên sơ của cô dâu ngày mới cưới còn nhiều bỡ ngỡ:“Tính mơ mộng của tôi, cộng với tính tình thực tế cộc cằn khiến những năm đầu xô xát anh vẫn yêu còn tôi thì buồn trầm lặng”[2]. Bà chia sẻ do còn ít tuổi lại lấy chồng sớm, nên chưa có nhiều kinh nghiệm trong quản lý gia đình, nhưng do GS Tôn Thất Tùng là một “người lớn” nên ông biết cách điều chỉnh để hợp lòng người vợ trẻ.
Một năm sau ngày cưới, Bác sĩ Tôn Thất Tùng đã từ bỏ cuộc sống vốn sung túc nơi đô thành, đem theo người vợ trẻ và cậu con trai đầu lòng 3 tháng tuổi – Tôn Thất Bách lên chiến khu Việt Bắc tham gia kháng chiến.
Sau 9 năm trường kỳ kháng chiến, Thủ đô giải phóng, cả gia đình GS Tôn Thất Tùng trở về Hà Nội (ngày 27-10-1954) và cuộc sống gia đình ông bà lại bắt đầu tại khu nhà xưa ở số 9 Lê Thánh Tông, Hà Nội. Ông bà lại sát cánh trong các ca phẫu thuật cứu người tại Bệnh viện Việt – Đức, nơi ông là Giám đốc Bệnh viện (1945- 1982).
Trong hồi ký của mình, bà Vi Nguyệt Hồ ghi lại khá chi tiết về chuyến công tác sang Pháp của GS Tôn Thất Tùng (4-1982). Sau bữa điểm tâm buổi sáng, GS Tùng nói với bà “chuyến này anh đi lần cuối cùng”, như có sự mách bảo của số phận. Bà an ủi “anh đi vừa làm việc vừa thay đổi không khí chứ cung cách làm việc ở nhà thì căng thẳng quá!. Đến Pháp ông viết thư về cho bà để thông báo tình hình và lịch về (ngày 27-4). Bà Vi Nguyệt Hồ nhớ lại hình ảnh GS Tôn Thất Tùng khi về nước “Anh về đầu đội berret mặc tee shirt quần nhung nâu khỏe khoắn hồng hào trẻ hơn trước khi đi, vui vẻ hàn huyên bắt đầu mở vali để chia quà cho cả nhà và các con đang chờ anh về. Hộp giấy filter, thuốc đánh răng, lọ cồn dán, túi vòng cao su, bao nhiêu thứ lặt vặt mà anh thích em lại xếp vào các ngăn cho anh đỡ tìm, “Hồ ơi từ nay mất gì anh không tìm nữa đâu ”[3] (Theo bác sĩ Tôn Nữ Hồng Tâm- con gái bà Hồ kể lại, lúc sinh thời, GS Tôn Thất Tùng thường phải nhờ bà Vi Nguyệt Hồ tìm những đồ dùng ông cần mà không tìm thấy, vì chỉ có bà mới hiểu ông).
Cho đến một ngày, “Ngày 7-5-1982: Em đi làm nhưng có ý định về nên không hôn anh như mọi khi, về thấy anh ngồi ghế đu, đòi em một viên mitro uống và đi nằm, 9h cô Lan đến hỏi câu nào anh trả lời câu ấy, tay vẫn che mắt, ông Hoàn đến làm massage dặn làm hai vai vì rất mỏi, 10h15 anh Hoàn cười nói vừa massage anh đã ngáy rồi, cứ để anh ngủ thế, Trân định lên hỏi, tôi gàn đi vì sáng nay đã dặn ăn cháo 11h15p. Khủng khiếp cho tôi quá lên thấy nằm yên hai tay buông xuôi, gối trắng đắp bụng tôi rón rén không thấy thở to, gối không phập phồng chạy lại nắm tay đã lạnh, thôi hết rồi, gọi Trân hô hấp bóp tim, nhưng lòng đau đớn và vô hi vọng. Vĩnh biệt anh”[4]. Đó là giây phút bà biết sẽ phải chia biệt mãi mãi người chồng thân yêu.
Bà Vi Nguyệt Hồ không muốn tin sự thật rằng từ nay bà vĩnh viễn mất ông. Bà thấy như GS Tùng vẫn đang hiện hữu quanh bà, với những thói quen uống cà phê, ăn trứng rán, xúc xích vào mỗi buổi sáng; tối vẫn ngồi chiếc ghế trước nhà đung đưa cùng đọc với bà truyện “Histoire d'épouvantes”của Hitchock, và tán chuyện vui vẻ cùng nhau, bàn luận về những chuyện trong khi đi làm việc ở Bệnh viện…
Dù sớm tối không còn có ông bên cạnh, bà Nguyệt Hồ cố lấp đầy sự trống vắng bằng những kỷ niệm của hai ông bà đã có với nhau trong gần 40 năm chung sống, cùng ba người con hiếu thảo, tài đức, đều nối nghiệp cha, là những bác sĩ giỏi. Nhưng, khó có ai biết bà vẫn đang lặng lẽ gánh chịu nỗi cô đơn khi không có ông ở bên.
“Ngày 17-5-1982: …Nay em lại phải sống, cố gắng sống để cho gia đình các con, các cháu những giọt máu của anh, còn công việc của anh, em, Bách và những người học trò thật tình thấy công lao của anh đóng góp và sẽ cố gắng vun đắp không thì phụ anh quá ”[5].
Hơn 30 năm đã trôi qua kể từ ngày GS Tôn Thất Tùng ra đi về với Tiên tổ, nhưng với bà Nguyệt Hồ, người chồng yêu thương vẫn trở về trong những giấc mơ với những câu chuyện đời thường, những tâm sự nhỏ to, để mỗi sớm mai thức dậy, bà lại khôn nguôi nhớ về ông.
Những bức ảnh của hai ông bà được đặt trang trọng ở trang đầu cuốn hồi ký của bà Vi Nguyệt Hồ
Bây giờ, trong căn nhà của hai ông bà , các kỉ vật, những bức ảnh của ông… bà vẫn giữ nguyên. Bà còn cắt một ít tóc của ông giữ lại làm kỉ niệm, bà để trong chiếc ví sử dụng hàng ngày của bà. Cuốn sách “Annata Christi” mà GS Tôn Thất Tùng đang đọc dở, bà cũng giữ nguyên, đánh dấu trang cuối cùng ông đọc và đề dòng chữ: “Hôm anh Tùng mất là đang đọc đến trang này”[6] .
Hàng ngày, bà Vi Nguyệt Hồ vẫn thường xuyên hai lần thắp những nén hương trên ban thờ người chồng quá cố. Mỗi dịp vào ngày giỗ của GS Tôn Thất Tùng, bà cùng con cháu nấu xôi, chè cúng ông, rồi thết đãi bạn bè, đồng nghiệp, bà con, học trò…, họ đến thăm gia đình, thắp nén hương thơm tưởng nhớ ông….
Khép lại những trang hồi ký đã phủ màu thời gian, xin được trích lời cuối trong cuốn hồi ký, bà viết ngày 3-5-1984: “Rồi năm tháng lại trôi qua, chẳng còn muốn viết vào cuốn hồi ký này nữa để làm gì?Vì không lúc nào không nghĩ đến anh”. Có lẽ GS Tôn Thất Tùng không chỉ sống mãi trong tim người vợ thủy chung mà những thế hệ bác sĩ hôm nay và mai sau vẫn sẽ "Nhớ mãi anh Tôn Thất Tùng"- một danh y Việt
Lưu Thị Thúy
____________________
[1] Trích hồi ký của Vi Nguyệt Hồ