GS.TSKH Bùi Đại – Vị tướng Quân y anh hùng

Thiếu tướng GS.TSKH Bùi Đại

Nhưng mới học chưa được một năm, tháng 10/1946, trước khi kháng chiến toàn quốc bùng nổ, chàng sinh viên y khoa năm thứ nhất đã phải tạm dừng việc học tập để làm công tác y tế trong quân đội cùng bạn bè, đồng đội, lên Việt Bắc để chăm sóc thương binh ở Quân y vụ Thái Nguyên, thuộc Quân khu I. Chín năm kháng chiến chống Pháp, Bùi Đại luôn có mặt ở khắp các chiến dịch lớn như Tây Bắc, Thượng Lào (Xiêng Khoảng)… Đầu năm 1953, ông được cử làm Trưởng ban Điều trị, Phó Trưởng phòng Kế hoạch Cục Quân y. Để chuẩn bị kế hoạch đảm bảo quân y cho chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử năm 1954, trước thời điểm chiến sự bắt đầu khoảng 3 tháng, ông đã cùng với Cục trưởng Cục Quân y lúc bấy giờ là bác sĩ Vũ Văn Cẩn bí mật lên sát mặt trận để điều tra chiến địa, bố trí các trung tâm y tế để phục vụ các trận đánh. Sau này, khi nhớ về những ngày tháng hào hùng đó, giáo sư Bùi Đại kể lại: “Hoạt động quân y bắt buộc chúng tôi đi sớm về muộn và khi bộ đội ta chiến thắng trong trận đánh ác liệt cuối cùng ở đồi A1 trở về thì chúng tôi là những người cuối cùng rút khỏi trận địa…”.

Cuối năm 1954, hòa bình lập lại trên miền Bắc, Bùi Đại được trở về công tác ở Bệnh viện Quân y 103, sau đó không lâu được cử sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh. Tại đây, cuối năm 1959, ông là một trong những cán bộ quân y đầu tiên của Việt Nam bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sĩ y học (nay là Tiến sĩ) chuyên ngành Truyền nhiễm. Trở về nước, ông tiếp tục về công tác trong ngành quân y, làm Chủ nhiệm Bộ môn Trường Đại học Quân y (sau này là Học viện Quân y), kiêm Chủ nhiệm khoa Truyền nhiễm Bệnh viện 103. Trong thời gian này, ông đã từng có mặt trên nhiều chiến trường gian khổ, ác liệt nhất của tiền tuyến lớn miền Nam, phục vụ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước anh dũng của toàn dân tộc: Tuyến đường mòn Hồ Chí Minh (1966), Mặt trận Đường 9 – Khe Sanh (1968), Mặt trận Tây Nguyên – Đông Nam Bộ (1971-1972), Mặt trận Trị – Thiên (1973), Chiến dịch Tây Nguyên và Chiên dịch Hồ Chí Minh lịch sử (1974-1975). Ông nhớ lại “…Những tháng ngày đầu năm 1965, bộ đội ta hy sinh rất nhiều vì mắc phải sốt rét ác tính. Nhất là những tân binh, nhiều anh em mới hành quân vào địa điểm tập kết đã phải nằm lại bởi sốt rét. Tôi  đi tất cả  các chiến trường B1, B3, B4, Khu 5,  Bình Trị Thiên, hai lần ở B2 Nam Bộ từ 1971-1973 và 1974-1976… Làm nhiệm vụ đẩy lùi bệnh sốt rét cho anh em chiến sĩ. Bệnh dịch nó cũng tàn bạo và gây nên nhiều cái chết đau thương như bọn giặc vậy. Nhưng thời điểm đó, cả dân tộc đang bừng bừng khí thế chiến đấu và chiến thắng kẻ thù, đã thôi thúc tôi làm thế nào đó hạn chế đến mức có thể, trong việc đẩy lùi bệnh sốt rét”…

Những phương án điều trị sốt rét ác tính  của ông  đã đáp ứng kịp thời, hiệu quả các nhu cầu của chiến trường và được đưa vào các văn bản chỉ thị hướng dẫn điều trị sốt rét của Cục Quân y và của Quân y Miền, được áp dụng rộng rãi ở mọi chiến trường từ các tuyến trước về cơ sở điều trị tuyến sau của hành lang 559, các quân khu B1, B2, B3, B4 và B5. “Lửa chiến trường luôn rực cháy, có bộ phận nhen lửa, có bộ phận thổi bùng lửa, thì cũng có chúng tôi – lực lượng quân y, những người giữ ngọn lửa đó cháy mãi”, giáo sư Bùi Đại thường tự hào tâm sự.

Từ năm 1960 – 1989, ngoài thời gian có mặt ở chiến trường miền Nam và làm công tác điều trị, nghiên cứu, giảng dạy, ông đã phụ trách nhiều đoàn chống dịch bệnh lớn: năm 1967 giúp Trung Quốc chống dịch viêm màng não, năm 1969 chống dịch lỵ ở Hà Nam – Nam Định, năm 1971 giúp Campuchia chống dịch hạch, năm 1976 chống dịch tả ở Hải Phòng và nhiều vụ dịch bệnh lớn khác… Năm 1979, ông được cử làm Phó Viện trưởng, Viện Quân y 103 và năm 1981, làm Viện trưởng Viện Quân y 103 kiêm Phó Giám đốc Học viện Quân y. Công việc quản lý chiếm nhiều thời gian nhưng ông vẫn tranh thủ tham gia giảng dạy và tiến hành nhiều đề tài nghiên cứu khoa học, đồng thời chuẩn bị hoàn thành luận án tiến sĩ. Giữa năm 1983, ông được cử sang Học viện Kirov (Liên Xô) làm Nghiên cứu sinh cao cấp. Cuối năm 1984, ông bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ (nay là Tiến sĩ khoa học) chuyên ngành Truyền nhiễm. Về nước, ông  được cử giữ chức vụ Viện trưởng Viện Nghiên cứu Y học Quân sự, từ năm 1985, ông được thăng quân hàm Thiếu tướng, đồng thời làm Giám đốc Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, sau đó làm Chuyên viên cao cấp, ủy viên Hội đồng Khoa học Bộ Y tế, ủy viên thường trực Hội đồng Khoa học Bộ Quốc phòng, Phó Chủ tịch Hội đồng Bảo vệ Sức khỏe Trung ương cho đến khi nghỉ hưu vào năm 2004.

Trong cuộc đời khoa học của mình, giáo sư Bùi Đại đã công bố gần 100 công trình nghiên cứu, là tác giả và chủ biên của 15 cuốn sách giáo khoa, chuyên khảo cho đại học và sau đại học. Đánh giá cao những thành tích khoa học của ông trong việc điều trị, phòng chống dịch bệnh, giảng dạy và nghiên cứu khoa học, Nhà nước đã công nhận chức danh Giáo sư và danh hiệu Thầy thuốc nhân dân cho ông ngay trong những đợt đầu tiên. Ông còn được tặng thưởng nhiều huân chương và phần thưởng cao quý khác. Người chiên sĩ quân y Bùi Đại sau nhiều năm lăn lộn chiến đấu và phục vụ chiến đấu trên các chiến trường chống Pháp và chống Mỹ đã có những đóng góp và công lao to lớn trong thắng lợi hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc. Ngày 13/12/1989, Thiếu tướng Bùi Đại vinh dự được Nhà nước, Quân đội phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân. Ông được nhận Giải thưởng Nhà nước về Khoa học và Công nghệ năm 2000 về các công trình nghiên cứu phòng chống bệnh sốt rét. Sau này, năm 2005 các công trình khoa học của ông được tập hợp lại cùng các công trình của tập thể các nhà khoa học khác, lại được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh về Khoa học và Công nghệ. Đó là một vinh dự to lớn của ông và các đồng nghiệp trong công cuộc đấu tranh chiến thắng bệnh sốt rét ở nước ta.

Mùa Xuân năm nay, Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học Bùi Đại đã bước sang tuổi 90 của cuộc đời. Thỉnh thoảng tôi lại được hân hạnh “hầu chuyện” giáo sư khi ông làm Chủ tịch Hội đồng chấm luận án Tiến sĩ y học ở Học viện Quân y và gần đây nhất trong buổi gặp mặt Mừng Xuân Quý Tỵ 2013 tại Trụ sở của Tổng hội Y học Việt Nam. Ông vẫn khỏe mạnh, minh mẫn và thanh thản lạ thường sau những năm tháng cống hiến hết mình cho Tổ quốc, Quân đội và Nhân dân. 

 

Lê Gia Vinh

Nguồn: hocvienquany.vn/Default.aspx