PV: Thưa ông, tôi từng nghe chiếc máy bay TL1 do một Việt kiều ở Pháp thiết kế, ông có thể cho biết rõ hơn về vai trò của người này?
Trung tướng Trương Khánh Châu:
Rất tiếc là ông Nguyễn Văn Phúc đã mất hơn chục năm nay rồi, nếu không thì có thể hỏi trực tiếp ông ấy. Còn tôi chỉ là người có may mắn được làm việc cùng ông một thời gian khá dài với chiếc TL1 này. Ông Phúc là người Hà Nội, sang Pháp từ năm 1937 với học bổng học ngành Hàng không, chuyên ngành thiết kế. Ông là người chế tạo chiếc máy bay Caravelle; hợp tác với Anh làm máy bay Concorde. Còn chiếc máy bay mang nhãn hiệu TL-1 thì có lịch sử tương đối dài dòng.
Năm 1977, được tin Thủ tướng Phạm Văn Đồng sang Pháp, ông Phúc từ
Tôi xin một máy bay trực thăng quân sự cho 3 người bay vào Vinh, Huế; rồi đi tiếp ô tô vào Đà Nẵng thăm cơ sở sửa chữa máy bay rất lớn của Mỹ nguỵ. Từ đây đi tiếp máy bay vào Tân Sơn Nhất thăm cơ sở sửa chữa máy bay ở đây, rồi cơ sở vào loại lớn nhất của Mỹ nguỵ ở Biên Hoà. Lại đi tiếp ô tô vào Cần Thơ thăm Sân bay Cần Thơ. Cuối cùng quay trở lại Tân Sơn Nhất để bay ra Hà Nội. Hành trình đó kéo dài 2 tháng.
PV: Kết luận rút ra được sau chuyến đi đó là gì, thưa ông?
Trung tướng Trương Khánh Châu:
Sau giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, ta có 4000-5000 máy bay Mỹ còn dùng được thuộc loại hiện đại nhất Đông Nam Á, chỉ sau Trung Quốc, và đều có nhà máy sửa chữa những máy bay này. Ngoài ra còn có nhà máy sửa chữa máy bay của Liên Xô. Chính ông Phúc kết luận: máy bay có nhiều, nhà máy cũng đủ, nhưng chỉ để sửa chữa vừa thôi. Không có cán bộ thiết kế, không có người sản xuất. Tôi nhất trí với kết luận này. Nhưng ông Phúc nói thêm: “Cơ sở hàng không của ta nhiều nhưng không mạnh, không chế tạo được máy bay lớn. Còn tôi lại chỉ là người thiết kế máy bay lớn vài trăm chỗ ngồi. Tôi sẽ tìm cho các anh thiết kế máy bay nhỏ và bày cho các anh thiết kế, rồi các anh tự sản xuất”. Tôi cho rằng ông Phúc là người rất trung thực, nhưng khổ nỗi, khi ông còn sống thì không ai hỏi ông, người khác thì có thể chỉ hiểu hiện tượng, không hiểu bản chất.
Sau khi ông Phúc nói thế, tôi đề nghị ông tìm cho thiết kế máy bay nhỏ thôi, không tốn kém nhiều và chỉ dẫn thêm cho chúng tôi, khi nào làm xong sẽ mời ông sang xem.
PV: Và quá trình “hoài thai” chiếc máy bay TL1 bắt đầu từ đây?
Trung tướng Trương Khánh Châu:
Vâng, bắt đầu từ việc Tư lệnh Đào Đình Luyện lập ra Viện Kỹ thuật Không quân và cử tôi làm Viện trưởng, với mục đích đầu tiên là đào tạo cán bộ. Thời gian này, tôi đã viết Chương trình 48D về làm máy bay trình Bộ Quốc phòng. Trong 5 ngành của Hàng không thì ngành Máy bay là ngành số 1 (Máy bay, Động cơ, Vô tuyến điện tử, Vũ khí, Thiết bị bay). Tôi lại có may mắn được học ngành này ở Liên Xô. Tôi tập hợp 13 Phó tiến sĩ học ở Liên Xô và một số nước XHCN về, chủ yếu thuộc ngành Máy bay. Rồi chọn 30 công nhân trong nhà máy công nghiệp Quốc phòng của Bộ Quốc phòng, chủ yếu là thợ hàn, gò, máy nổ, tiện, phay…Tôi trực tiếp chỉ huy đội quân này, cả thiết kế, công nghệ, chế tạo thiết bị. Không có kinh phí, chỉ có lòng nhiệt tình của anh em thôi. 8 toa tàu hoả chở nhà tôn, thiết bị, máy móc cơ khí trong
Lúc đó, vật liệu, động cơ cỡ 300 sức ngựa thì nhiều lắm. Tôi mở một số máy bay nhỏ (trong số vài trăm chiếc U17A, U17B ta thu được của Mỹ nguỵ) ra xem chúng được chế tạo thế nào. Tôi thấy nó cũng tương tự như hình chiếc máy bay Rallye của Pháp quảng cáo mà ông Phúc mang về cho chúng tôi coi.
Sáu tháng sau, chúng tôi vẽ xong thiết kế sơ bộ và điện cho ông Phúc. Năm 1978, cả hai vợ chồng ông Phúc cùng về Việt
Chúng tôi mày mò rồi sửa lại và hoàn chỉnh bản thiết kế chi tiết. Tôi và anh Nguyễn Duy Tô mang bản vẽ chi tiết này sang Pháp gặp ông Phúc để trao đổi. Chúng tôi ở nhà ông một tháng trời, cùng ông trao đổi hoàn thiện bản thiết kế. Ông Phúc khen bản thiết kế khá, nhưng hỏi ông cách chế tạo thế nào thì ông chịu. Vì ông Phúc chỉ biết giỏi về thiết kế kỹ thuật (TKKT) mà TKKT chỉ là các bản vẽ. Muốn biến các bản vẽ TKKT thành chiếc máy bay thì phải thiết kế công nghệ (TKCN-tìm ra phương pháp gia công, thiết bị gia công và nguyên vật liệu để sản xuất các chi tiết và lắp ráp máy bay (mỗi máy bay có khoảng 150.000 chi tiết khác nhau). Lúc bấy giờ, chúng tôi rất biết ơn ông Phúc đã có công đề xuất với Lãnh đạo Việt
Về Việt
Xong, chúng tôi đưa lên Hoà Lạc bay thử. 42 ngày đêm máy bay không thể rời mặt đất vì càng máy bay bị rung lắc lớn. Khi đó, ông Phúc cũng có mặt, nhưng chờ 7 ngày không được (mà ông cũng không hiểu vì sao) thì ông quay về Pháp. Mãi sau chúng tôi mới tìm ra nguyên nhân: càng máy bay có 2 bộ phận thì lấy từ 2 chiếc máy bay khác nhau (râu ông cắm cằm bà). Tôi đi tìm chiếc máy bay khác, cưa cưa mài mài chiếc càng mới. Lắp vào. Đúng 9h30 ngày 25-9-1980, máy bay cất cánh. Đó là ngày sinh của TL-1 (TL là viết tắt từ chữ “trinh sát liên lạc”), mà chúng tôi dự định 19-8, rồi 2-9 cũng vẫn chưa “mãn khai”, cuối cùng phải đến 25-9. Từ đó ngày 25-9 hàng năm là ngày chúng tôi gặp mặt nhau. Năm nay là chẵn 30 năm. Hành trình bay khi ấy là từ Hoà Lạc đến Gia Lâm, để báo cáo Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Sau đó chúng tôi được thưởng chiếc ô tô
PV: Điều mà Tổng Bí thư hi vọng ấy có thành hiện thực không, thưa ông?
Trung tướng Trương Khánh Châu:
Tôi không biết cái điều mà chúng tôi làm được 4 năm sau đó có phải là một bất ngờ lớn không, nhưng dù sao tôi cho rằng đó cũng là một dấu mốc đáng ghi nhận. Ấy là việc chúng tôi cải tiến TL-1 thành HL-1 (HL là viết tắt từ “huấn luyện”). Hai ghế ngồi của TL-1 là ngang nhau thì ở HL-1 là cái trước cái sau, dành cho người giáo viên huấn luyện và học viên. Tiếp đó là HL-2 có thể hạ cánh xuống nước. Năm 1987, Tổng Tham mưu trưởng Đoàn Khuê gọi tôi lên bảo: đất nước đang khủng hoảng kinh tế, ta nên dừng công việc thiết kế, chế tạo máy bay loại nhỏ lại.
Song song với việc chế tạo máy bay, chúng tôi còn gửi đi đào tạo được hơn 10 Phó tiến sĩ. Có thể nói, với 3 chiếc máy bay này, chúng ta đã xây dựng được ngành Công nghiệp Hàng không máy bay loại nhỏ. Với máy bay to, quy mô lớn thì cần hợp tác với nước ngoài. Ta có thể chế tạo từng phần. Thế giới cũng làm như vậy cả, ví dụ máy bay Airbus là sản phẩm hợp tác của 5 nước phát triển: Đức sản xuất đầu, Pháp – thân, Tây Ban Nha – cánh…
PV: Bây giờ nghĩ lại, ông có thấy bất ngờ với những gì mà bản thân mình đã làm được không?
Trung tướng Trương Khánh Châu:
Kể ra cũng thấy tự hào. Tôi đi kháng chiến từ năm 1950, rồi được học trường kỹ thuật của Nam bộ, tập kết năm 1954, ở đơn vị Quân giới cùng tập kết với Sư đoàn 330 của miền Bắc đóng ở Tứ Trụ (Thanh Hoá). Khi ấy, Bộ tổng tham mưu vào tuyển chọn phi công, tôi là 1 trong 2 người được chọn ra sân bay Gia Lâm để dự tuyển, khi đó tôi 19 tuổi. Khám sức khoẻ ở Viện 108, các tiêu chuẩn tôi đều đạt yêu cầu, trừ mắt (cả bố tôi và ông ngoại tôi đều bị mù). Thế là tôi không được đi sang Liên Xô để học làm phi công. Tôi về học thợ máy, do chuyên gia Trung Quốc dạy. Dù khi đi kháng chiến chỉ có trình độ văn hoá lớp 5 nhưng do được học về Quân giới nên tôi học thợ máy cũng nhanh. Hồi đó Liên Xô tặng Việt Nam mấy chiếc máy bay để đưa Bác đi công tác, tôi vừa đảm bảo máy bay cho Bác đi công tác, đêm tôi vừa học bổ túc hết lớp 10, vậy mà cũng có cố gắng cải tiến máy bay bay thường thành máy bay bay huấn luyện (có 2 tay lái, một cho phi công giáo viên, một cho học viên). Sáng kiến này tuy giá trị công nghệ thì nhỏ thôi nhưng giá trị thực tiễn thì lớn. Tôi được đi báo cáo tại Đại hội thi đua của Cục Không quân và được gặp Bác Hồ. Lúc giải lao, Cục trưởng Không quân hỏi: “Anh làm có thiết kế không?”. Đáp: “Tôi nghĩ thế nào làm thế đó, chủ yếu để thực nghiệm cho an toàn bay. Tôi thử bóp cần lái phanh máy bay để xem với lò xo đó thì phanh được bao nhiêu lần. Bây giờ thì biết thiết kế rồi nhưng lúc đó chỉ có cách thử thực tế như vậy. Tôi bóp 1 vạn lần mà lò xo không biến dạng, trong khi mỗi lần bay chỉ bóp phanh đến 10 lần”. Ông lại hỏi tiếp: “Anh học lớp mấy?” Đáp: “Lớp 9 bổ túc.” Và thế là ông cho tôi đi Liên Xô học, trước đó phải lên trường Văn hoá Quân đội để học cho xong lớp 10. Mà khi tôi vào học thì lớp 10 đã học được 3 tháng, tôi vẫn phải theo cho kịp (chương trình lớp 10 chỉ học trong 6 tháng). Ông giáo toán ra 3 bài toán, bảo tôi nếu giải được thì cho học. Tôi đã giải được 2 trong 3 bài đó, và được học luôn với lớp 10 đó.
Sang Liên Xô, tôi thi vào trường Đại học Hàng không Kiep. Sáu năm học chủ yếu học khai thác, và tôi tốt nghiệp kỹ sư máy bay. Phần thiết kế chỉ được học rất ít, phải tự mình học lấy ở trong Xưởng đại tu máy bay, nghiên cứu các quy trình công nghệ sửa chữa vừa, sửa chữa lớn. Cái gì không biết thì học trong sách vở. Ấy thế mà rồi cũng dạy lại được anh em (như bây giờ vẫn gọi “cơm chấm cơm”).
PV: Thưa Trung tướng, bằng kinh nghiệm và hiểu biết của mình về Hàng không Việt Nam, ông có cho rằng chúng ta hoàn toàn có thể sản xuất máy bay?
Trung tướng Trương Khánh Châu:
Máy bay 4-5 chỗ ngồi là ta hoàn toàn làm được. Mỗi lần anh em chúng tôi gặp nhau dịp Kỷ niệm 25-9, anh em lại đề nghị tôi xin chủ trương để anh em làm máy bay góp phần xây dựng ngành Hàng không Việt Nam, không cần nhận lương. Riêng tôi tự nhận thấy tuy cũng đã nhiều tuổi nhưng trí tuệ và sức lực vẫn còn. Hôm Bộ Quốc phòng tổ chức trao cho tôi Huân chương Độc lập hạng Nhì do Chủ tịch nước tặng, tôi đã phát biểu: Khi Đảng cần, Quân đội cần, tôi vẫn sẵn sàng tiếp tục cống hiến. Vừa rồi, tỉnh An Giang đang nhờ tôi chỉ đạo làm sân bay ở Cần Đăng, Long Xuyên với cương vị Uỷ viên Ban chỉ đạo. Tôi được biết Trung tâm Công nghệ vũ trụ Việt Nam đang được xúc tiến thành lập, và nếu họ mời tôi làm Uỷ viên Hội đồng Trung tâm Công nghệ vũ trụ, tôi sẽ sẵn sàng nhận lời đầu quân để góp sức xây dựng.
PV: Xin chúc ông có nhiều thành công trong quá trình tiếp tục cống hiến cho ngành Hàng không, Vũ trụ của Việt
Nguyễn Thị Trâm
Trung tâm CPD