Niềm tin trong khoa học

            Khoa học là sự nổi dậy của tư duy

Sinh thời, GS Tôn Thất Tùng luôn coi GS Hồ Đắc Di là người thầy, người anh, và hay nhắc tới GS Di bằng cụm từ thân mật: “cụ Di”. “Khoa học là sự nổi dậy của tư duy” (Insurrection de la penséc), đó là câu mà GS Hồ Đắc Di hay nói với GS Tôn Thất Tùng, điều này khiến ông ghi tâm khắc cốt và sau này cứ nhắc đi nhắc lại mãi với các học trò của mình.

GS Tôn Thất Tùng cũng từng nói: “Nghiên cứu là một sự vùng lên không ngừng của trí tuệ đối với hiểu biết các sự việc”[1]. Ông cho rằng đã làm khoa học thì phải luôn luôn đặt lại vấn đề, vì nếu không thì chẳng có gì phải tìm kiếm và không có gì để phát minh. Khi là một sinh viên nội trú, ông cùng với một số anh em khác được đảm nhiệm công việc mổ kiểm tra tử thi. Đây là một công việc không ai thích cả vì người mổ dễ bị truyền nhiễm các bệnh từ tử thi, mặc dầu vậy ông coi đây là một công việc may mắn đối với bản thân. Chính thông qua công việc thường ngày này mà GS Tôn Thất Tùng có cơ sở đối chiếu lại việc chẩn đoán và điều trị là đúng hay sai, nhờ đó mà nhận thấy được thực tế có phần khác với sách vở đã mô tả lúc bấy giờ, đồng thời cũng phát hiện được những “lỗi” trong lời giảng của các thầy giáo. Bởi Lý luận luôn màu xám.

GS Tôn Thất Tùng hướng dẫn mổ gan cho một bác sĩ người Pháp tại Bệnh viện Việt – Đức, 1974

GS Tôn Thất Tùng từng khẳng định: “Muốn làm khoa học thì phải biết nhìn sự vật với một quan điểm mới, rập khuôn theo người khác thì chẳng đem lại điều gì mới”. Đó là điều mà ông đã đúc kết được từ khi mới chập chững những bước đầu tiên vào khoa học. Hồi đó, Tôn Thất Tùng đang chuẩn bị làm luận án tốt nghiệp bác sĩ tại trường Y Đông Dương, thầy giáo muốn hướng ông vào nhân chủng học về hình thái. Thầy giáo đã có sẵn giả thuyết về mối liên quan giữa góc sườn và vị trí giải phẫu của gan ở người Việt Nam và muốn ông thực hiện những nghiên cứu trên thực nghiệm, chứng minh giả thuyết đó là đúng, nếu kết luận khác đi thì tương lai của bản thân sẽ không thuận lợi. Bắt tay vào công việc thì Tôn Thất Tùng nhận thấy cách đo lường cơ bản không chuẩn xác. Ông đã hỏi lại thầy là dựa vào những mốc cụ thể nào để đo lường như vậy, thì nhận được câu trả lời rằng: người ta đo sao thì mình cứ làm thế. Ông cố công tìm trong sách vở mà không thấy một định nghĩa hay khái niệm nào về cách đo lường ấy cả. Trong khi đó các bạn của ông làm nghiên cứu đo góc hàm (ở đầu người) cũng gặp những khó khăn về phương pháp đo mà vẫn cứ làm. Về vấn đề này, sau đó ông có viết lại: “Tôi thấy chán vì không thể nào làm được và nếu miễn cưỡng làm thì chỉ nói cho ông thầy bằng lòng thôi. Qua đấy tôi thấy ngay cái khó khăn của tính trung thực trong khoa học”. Ông tiếp tục lập luận rằng: “Như vậy là một cách áp đặt chủ quan nguy hiểm đối với người học trò vì buộc người ta phải đi theo một hướng mà chưa được kiểm tra”[2].

Không chấp nhận những áp đặt về mặt tư duy, hay lối mòn trong cách nghiên cứu, Tôn Thất Tùng đã tìm cho mình sự thích thú riêng mang tính đột phá và “nổi loạn”. Khởi đầu cho bước ngoặt ấy là khi kiểm tra tử thi như thường lệ, Tôn Thất Tùng phát hiện thấy trường hợp giun vào đầy trong đường mật và khi quan sát đường mật trong gan về phương diện giải phẫu thì thấy khác hẳn với các sự mô tả của sách vở. Lúc đó ông nhận ra rằng sách ghi chép cả những cái sai, vì vậy ông đi đến một quyết định: từ bỏ hướng nghiên cứu cũ và bước vào nghiên cứu tĩnh mạch trong gan. Những nghiên cứu đã mở ra cả một trang mới trong nền Y học hiện đại với phương pháp cắt gan có kế hoạch.

Một trường hợp khác, cũng từ khi còn là sinh viên Y khoa, Tôn Thất Tùng đã đưa ra những quan điểm khác so với sách vở và bài giảng của những GS người Pháp. Sau này ông có viết lại: “Nói hay chưa chắc đã làm hay, chưa chắc đã đúng. Ví dụ vấn đề giun sán. Hồi tôi còn là sinh viên Y, ba vấn đề bệnh lý chính của người Việt Nam bấy giờ là giun sán, thiếu dinh dưỡng và lỵ. Và các thầy dạy đều quy mọi bệnh lý vào một trong những nguyên nhân trên. Suy luận thì như vậy, nhưng không có cơ sở chứng minh. Những người Pháp sang đây chỉ thấy thực tế ta là những vấn đề bất thường và kỳ lạ. Quan điểm của chúng tôi lại khác, người mắc bệnh giun sán có thể xem như một thực nghiệm do ký sinh trùng gây nên trên người và chúng tôi tìm hiểu các lý luận qua những sự kiểm tra ấy. Và nhờ đó chúng tôi thấy vấn đề một cách khác đi”[3]

Nghiên cứu là một quá trình

Phương pháp cắt gan có kế hoạch của GS Tôn Thất Tùng phải mất hơn 20 năm mới thực hiện được và trở thành một phát minh có ý nghĩa quốc tế. Nó được bắt đầu thai nghén và gây tranh cãi từ năm 1939, sau đó vì nhiều lý do: Kháng chiến chống Pháp, sự thiếu thốn trang thiết bị, cơ sở nghiên cứu…mà mãi đến năm 1962, GS Tôn Thất Tùng mới thực hiện thành công ca cắt gan đầu tiên. Tiếp sau đó số ca mổ theo phương pháp này tăng lên rất nhiều, lên đến 600-700 ca, ông tiến hành mổ theo phương pháp này ở nhiều nước và trở thành một phương pháp mang tên ông. Để có được thành công này, GS Tôn Thất Tùng đã phải kiên trì và bền bỉ nghiên cứu và thực hành liên tục trong nhiều năm. Ông cho rằng, điều quan trọng trong công tác nghiên cứu khoa học là cần phải biết kết hợp giữa công việc chân tay làm hàng ngày và suy nghĩ của trí óc: “Sợ nhất là quan niệm nghiên cứu khoa học chỉ là đọc sách vở thôi. Nhiều người tưởng rằng nghiên cứu khoa học nghĩa là chỉ đọc sách vở rồi phát minh… Không có thực nghiệm nghĩa là không có khoa học. Nghiên cứu khoa học là một kết hợp bền bỉ giữa trí óc và chân tay trong một thời gian lâu dài cho đến lúc phát minh: vì thế người ta có khi chỉ thấy đột ngột của phát minh mà hay quên giai đoạn gian khổ về suy nghĩ và thực nghiệm”[4].

Làm khoa học đòi hỏi sự bền bỉ, thành công không đến với những ai không biết kiên trì. GS Tôn Thất Tùng thường khuyên những người nghiên cứu nên tự tin và mạnh dạn: “Ta vẫn có mặc cảm tự ty, thấy “Tây” bảo sai là không dám làm hoặc xung quanh có khi không tin nữa và lại nói là phản khoa học”. Điều này thấy ở GS Tôn Thất Tùng qua quá trình ông nghiên cứu về ảnh hưởng của chất diệt cỏ dioxin. Muốn xác định vấn đề này, GS Tôn Thất Tùng đã mời một nhóm nghiên cứu của Trung Quốc có kinh nghiệm về nghiên cứu nhiễm sắc thể. Họ đã kết luận là các biến đổi về nhiễm sắc thể do dioxin là có thật. Những nghiên cứu của một số nhà khoa học đã kết luận rằng chất dioxin nằm trong bột 2,4,5T có tính chất gây ung thư mạnh… và đối tượng tác động của nó là gan. Vì vậy, GS Tôn Thất Tùng đã đi sâu vào ung thư gan. Lúc đầu những nghiên cứu của ông bị phản đối mạnh mẽ, vì một số tổ chức và quốc gia muốn bảo vệ những lợi ích chính trị cũng như kinh tế của họ. Tuy nhiên, sau 10 năm nghiên cứu và đấu tranh, các nhà khoa học đã phải công nhận về tác hại của chất này, đồng thời đưa ra các khuyến cáo tính nguy hại của nó trên mức độ toàn cầu.

GS Tôn Thất Tùng chỉ ra từ kinh nghiệm nghiên cứu khoa học của mình rằng: nghiên cứu là một quá trình dây chuyền, giải quyết khâu này xong phải giải quyết tiếp khâu sau và cứ như vậy suốt đời cũng không làm hết. Ông cho rằng làm nghiên cứu khoa học đơn độc rất hạn chế: “Từ khi tôi tổ chức cùng nghiên cứu với những người trong các lĩnh vực khác như về Xquang, miễn dịch học, men học,… thì nội dung công trình và chất lượng thay đổi hẳn. Lúc này mới trở thành xây dựng một trường phái. Người đứng đầu một trường phái là gì? Là người tìm ra một lý luận, một phương pháp nào đó… rồi biết tổ chức thành một đội ngũ rộng rãi hỗ trợ tiến hành – vì một mình không thể đi sâu vào nhiều khía cạnh được, như vậy là mình có một tập thể làm theo một hướng đề ra”[5]

Truyền lại niềm tin trong khoa học cho thế hệ tương lai

Sinh thời, GS Tôn Thất Tùng rất tin tưởng và đặt niềm tin mãnh liệt vào thế hệ trẻ, luôn đề cao vai trò của họ trong mọi lĩnh vực. Trong nghiên cứu, vai trò của người thầy giáo là khơi gợi  trong suy nghĩ của học trò những ý tưởng mới, cách suy luận mới để nghiên cứu. Tuổi trẻ có rất nhều thuận lợi trong nghiên cứu và tìm tòi cái mới. Ngay từ cuối những năm 1970, ông đã đặt ra vấn đề và đề xuất việc sử dụng đội ngũ trí thức trẻ tuổi: “Cái lo ngại của tôi ở các trường Đại học là không thay đổi đội ngũ: trường chỉ nên giữ một số khung chính của mình trong giảng dạy và trong nghiên cứu cần đưa nhiều người trẻ và. Như vậy mới đem vào trường được nhiệt tình và say sưa đối với khoa học”.

GS.VS Tôn Thất Tùng phát biểu tại Hội nghị Khoa học và sáng tạo các trường Đại học Y Dược toàn quốc, 2-1982

Đối với thanh niên làm khoa học, đức tính đầu tiên là phải có ý thức quan sát và phân tích, nghĩa là mở rộng con mắt và trí tuệ ra thế giới bên ngoài, từ bỏ mọi cái có sẵn mang tính áp đặt, để xem xét thế giới bên ngoài. Trong một bài nói chuyện với thanh niên, ông nhấn mạnh: “Nghiên cứu khoa học không phải chỉ đọc sách thôi, mà còn là đến lúc hành động phải quên hay vất bỏ các sách vở để theo dõi và phân tích các hình ảnh của sự thật: quan sát hàng giờ, hàng ngày, hàng năm một hiện tượng khoa học, trên một con vật, trên  một cái máy, trên một con người. Cho nên, nghiên cứu khoa học trước hết là lao động chân tay một cách tinh vi, để cuối cùng đi đến sáng tạo của trí tuệ”[6]. Ông cũng động viên các thế hệ trẻ: “Các bạn phải có can đảm để bỏ cái cũ theo cái mới, để tấn công vào các pháo đài bảo thủ và giáo điều vô số trên đất nước ta. Nhất hạng, các bạn không nên sợ chống đối. Chống đối trong khoa học có nghĩa là bạn đã tìm được một cái gì mới, một cái gì lạ. Trái lại các bạn đề phòng một sự thông qua dễ dàng của một tập thể: hoặc là tập thể đó quá non yếu hoặc là bạn không đem một cái gì mới. Không có một cái gì mới trên trái đất này mà không có chống đối”[7]. Ông nhắc nhở thanh niên: “Khoa học là để phục vụ nhân dân, để cống hiến cho đời sống hàng ngày của nhân dân. Chúng ta cần phải biết thích ứng yêu cầu của nghiên cứu vào khả năng kinh tế của đất nước, đó là một việc cấp bách phải giải quyết ngay”[8].

Cuối cùng, đối với GS Tôn Thất Tùng, làm khoa học ở lĩnh vực nào cũng thế, nhà bác học ở độ tuổi nào cũng vậy, đạo đức cần được đặt lên hàng đầu. Ông luôn luôn nhấn mạnh: “Trung thực là đạo lý cơ bản của nghiên cứu khoa học”. Muốn thành công trong bất cứ lĩnh vực nào thì con người cũng cần phải có đạo đức, có cái tâm trong sáng, vì nhân dân mà phục vụ thì mới hy vọng có được thành công. Tất cả các kinh nghiệm nghiên cứu, suy cho cùng là đạt được mục đích trong nghiên cứu khoa học, nhưng nó sẽ chỉ được đặt sau vấn đề đạo lý của con người. Ông nhận định và nhắc nhở đối với tất cả mọi người: “Trong tương lai, khoa học càng ngày càng phải dựa trên cơ sở đạo lý. Ví dụ với những tiến bộ về di truyền nếu không có cơ sở đạo lý có thể làm những thủ thuật di truyền đưa đến những hậu quả chưa lường được. Vấn đề đạo lý không phải chỉ riêng cho thầy thuốc mà cả các khoa học khác, tôi nghĩ như vậy”[9].

Niềm tin khoa học ở GS Tôn Thất Tùng sẽ có giá trị như chân lý đối với nhiều thế hệ nhà khoa học Y học sau này, đặc biệt là với thế hệ trẻ.

Nguyễn Thanh Hóa

Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam


[1] Trích bài phát biểu của GS Tôn Thất Tùng ở Bộ Đại học, khoảng cuối những năm 1970.

[2] Trích bài phát biểu của GS Tôn Thất Tùng ở Bộ Đại học, khoảng cuối những năm 1970, tr. 2-3.

[3] Trích bài phát biểu của GS Tôn Thất Tùng ở Bộ Đại học, khoảng cuối những năm 1970, tr. 2.

[4] Trích bài phát biểu của GS Tôn Thất Tùng ở Bộ Đại học, khoảng cuối những năm 1970, tr. 4

[5] Trích bài phát biểu của GS Tôn Thất Tùng ở Bộ Đại học, khoảng cuối những năm 1970, tr. 6

[6] Trích bài phát biểu của GS Tôn Thất Tùng tại Hội nghị khoa học và sáng tạo tuổi trẻ, 2-1982, tr.2.

[7] Trích bài phát biểu của GS Tôn Thất Tùng tại Hội nghị khoa học và sáng tạo tuổi trẻ, 2-1982, tr.4.

[8] Trích bài phát biểu của GS Tôn Thất Tùng tại Hội nghị khoa học và sáng tạo tuổi trẻ, 2-1982, tr.4.

[9] Trích bài phát biểu của GS Tôn Thất Tùng ở Bộ Đại học, khoảng cuối những năm 1970, tr. 10.