Di sản các nhà khoa học và vấn đề lưu trữ tài liệu về lịch sử cuộc đời các nhà khoa học Việt Nam

 Thực trạng Di sản các nhà khoa học Việt Nam

Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, một đội ngũ trí thức khoa học được hình thành và có nhiều đóng góp trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Họ đã tham gia vào những sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước, từ Cách mạng tháng Tám, hai cuộc kháng chiến trường kỳ, công cuộc xây dựng cải tạo chủ nghĩa xã hội, tiến trình đổi mới và hội nhập quốc tế. Bản thân họ, mỗi nhà khoa học trong quá trình hoạt động khoa học và xã hội, đã tạo ra nhiều nguồn tư liệu liên quan đến các vấn đề về lịch sử các ngành khoa học, lịch sử đất nước. Đó chính là những tư liệu về lịch sử cuộc đời các nhà khoa học hay có thể gọi là di sản các nhà khoa học. Những tư liệu này không chỉ phản ảnh các hoạt động của nhà khoa học, mà còn mang thông tin về lịch sử các ngành khoa học, lịch sử dân tộc.

Di sản các nhà khoa học được đặt trong những tư liệu liên quan đến bối cảnh xã hội và các hoạt động của nhà khoa học. Đó là tài liệu về bối cảnh quê hương, gia đình, dòng họ, về quá trình học tập, nghiên cứu khoa học, hoạt động chuyên môn, xã hội hay gắn liền với cuộc sống đời thường của nhà khoa học. Di sản các nhà khoa học bao gồm các tài liệu như sổ ghi chép, bản thảo khoa học, giấy tờ, công văn, quyết định, các công trình khoa học, thư từ, đồ dùng học tập, nghiên cứu, các hiện vật có liên quan đến cuộc đời nhà khoa học, các băng ghi âm, ghi hình, ảnh tư liệu về nhà khoa học…

Tài liệu lịch sử cuộc đời các nhà khoa học ở Việt Nam hiện nay đang nằm trong tình trạng báo động khẩn cấp và cần được lưu trữ kịp thời. Đây là việc mà cả nhà nước, xã hội và các tổ chức kinh tế – xã hội có thể tham gia và có những trách nhiệm khác nhau. Hiện nay, các nguồn tư liệu này vẫn được lưu giữ ở từng gia đình của các nhà khoa học. Và tất nhiên, không phải gia đình nào cũng lưu giữ các nguồn tài liệu này một cách tốt, an toàn do nhiều yếu tố từ nhận thức, điều kiện hoàn cảnh gia đình…

Tài liệu lịch sử cuộc đời các nhà khoa học có nhiều giá trị quan trọng trong việc nghiên cứu về lịch sử một con người, một gia đình, một ngành khoa học, một lĩnh vực khoa học, rộng hơn là gắn với từng giai đoạn lịch sử đất nước. Xét cho cùng thì không có con người nói chung mà chỉ có những con người cụ thể làm nên lịch sử. Và để hiểu lịch sử cuộc đời của một nhà khoa học, phải nghiên cứu toàn bộ, càng nhiều càng tốt các nguồn tư liệu của họ và liên quan đến các hoạt động của họ. Từ hiểu cuộc đời nhiều nhà khoa học sẽ hiểu được lịch sử sống động của các ngành khoa học và một phần lịch sử đất nước.Vậy nên di sản các nhà khoa học cần được xem như một nguồn tài sản quý của quốc gia. Tiếc rằng, đến nay điều đó vẫn chưa được nhận thức một cách đầy đủ. Một số ví dụ sau đây để chứng minh cho nhận định này:

Giáo sư Tôn Thất Tùng là một nhà Y học nổi tiếng ở Việt Nam và thế giới. Ông có nhiều đóng góp trong việc xây dựng nền Y học đương đại ở Việt Nam, về nghiên cứu khoa học, phát minh của ông trong cắt gan khô và mổ tim hay việc đặt vấn đề vạch trần việc sử dụng vũ khí hóa học mang chất độc Dioxin hủy hoại con người của đế quốc Mỹ trong chiến tranh Việt Nam. Toàn bộ những tư liệu liên quan đến cả cuộc đời chữa bệnh cứu người, hoạt động khoa học, giáo dục đào tạo các thế hệ bác sĩ của ông gồm những sổ ghi chép, nhật ký, thư từ, ảnh, bản thảo khoa học, sách báo, giấy tờ, phim ảnh… sau khi ông mất, phần nhiều đều lưu giữ thông thường ở gia đình mà không có chế độ bảo quản, lưu trữ phù hợp. Những tài liệu quý báu này bị mai một, hư hỏng và mất mát dần, các tủ sách, tài liệu bị mối xông, các tấm ảnh bị ẩm mốc… Đến năm 2012, khi gia đình ông tặng lại cho Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam lưu giữ và nghiên cứu toàn bộ di sản của ông, thì hơn 200 bức ảnh chụp hoạt động của GS Tôn Thất Tùng đa phần đã bị hư hại, mốc và mờ.

Tương tự trường hợp GS Tôn Thất Tùng, toàn bộ tài liệu, hiện vật liên quan đến lịch sử cuộc đời của hai nhà Y học nổi tiếng khác là GS Đặng Văn Chung và GS Chu Văn Tường cũng do gia đình lưu giữ, bảo quản trong sự lo lắng vì mối xông, hư hỏng, dần thất lạc theo thời gian. Và cuối cùng, các gia đình này đã chọn Trung tâm Di sản… để gửi gắm.

Bằng hoạt động của mình Trung tâm đã dần dần từng bước bảo quản một cách khẩn trương những di sản của từng nhà khoa học đã sưu tầm được.

So với các nhà Y học – là lĩnh vực có nhiều thành công và đóng góp lớn cho đất nước trong thế kỷ XX, thì khoa học xã hội lại kém phần may mắn hơn. Nếu các nhà y học đã lưu giữ lại được tương đối tốt các tài liệu liên quan đến lịch sử cuộc đời của mình thì với các nhà khoa học xã hội tư liệu lại vô cùng hạn chế. Trường hợp còn lưu giữ được cũng không đầy đủ. Như các tài liệu về cuộc đời nghiên cứu sử học của GS Văn Tạo. Là một nhà nghiên cứu làm việc ở Ban Văn Sử Địa (tiền thân của Viện Khoa học Xã hội ngày nay) từ những ngày đầu thành lập, GS Văn Tạo còn lưu giữ được khá nhiều tài liệu về cuộc đời của mình như các thư từ, giấy tờ, công văn, bản thảo công trình, bài viết… Nhưng không phải lưu giữ để làm tư liệu nghiên cứu mà ông lưu giữ một chút để làm kỷ niệm. Đến khi về già, ông không biết phải xử lý thế nào với những tư liệu của mình sau khi một số bị mất mát, một số bị hư hỏng, thậm chí nhiều tài liệu viết tay, đánh máy của ông bị bán cho đồng nát hay tự hủy đi. Hay những tài liệu liên quan đến cuộc đời và quá trình xây dựng ngành Đông Nam Á học ở Việt Nam của GS.TS Phạm Đức Dương cũng vậy. Toàn bộ gồm các bản thảo, bài viết, kỷ yếu, sổ nhật ký điền dã, giấy tờ, công văn, quyết định và ảnh tư liệu… được bó thành các bó và để trên nóc tủ, gầm tủ trong tình trạng ẩm mốc, mối xông và hư hỏng. Hầu hết các nhà nghiên cứu chưa xem các tư liệu này như một nguồn tài liệu lưu trữ có giá trị mang tính khoa học.

Một số ví dụ trên để có một hình dung về thực trạng các về tài liệu lịch sử cuộc đời của các nhà khoa học Việt Nam. Các nhà khoa học, dù nổi tiếng hay không nổi tiếng, đóng góp nhiều hay đóng góp ít thì cũng giữ một vai trò nhất định trong diễn trình phát triển khoa học và lịch sử khoa học. Và mỗi nhà khoa học đều đang lưu giữ lại được một số tư liệu liên quan đến cuộc đời của mình. Bản thân họ nhiều người là trí thức bậc cao và tham gia vào nhiều sự kiện quan trọng của đất nước nên tư liệu của cuộc đời họ là những minh chứng về lịch sử đất nước. Số tư liệu này rải rác trong các cá nhân, các gia đình đang xuống cấp nghiêm trọng, có những khối tài liệu đang ở tình trạng cấp cứu vì đang có nhiều nguy cơ bị hủy hoại khác nhau.

Nguyên nhân dẫn đến thực trạng đáng lo ngại về di sản các nhà khoa học Việt Nam

Thực trạng đáng lo ngại về tư liệu các nhà khoa học ở Việt Nam bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Trước hết là quan niệm về công tác lưu trữ. Lưu trữ nhà nước không quan tâm hay chưa đủ sức bao quát đến nguồn tư liệu phong phú này ở tận từng cá nhân và gia đình các nhà khoa học. Và xa hơn chưa thấy được vai trò của lưu trữ tư nhân, tức các loại hình lưu trữ ngoài Nhà nước. Lưu trữ gia đình gặp nhiều khó khăn do nhận thức, do chiến tranh và do đời sống kinh tế. “Ba lần chuyển nhà bằng một lần cháy nhà” là một câu nói miêu tả sự mất mát tư liệu, hiện vật sau các lần chuyển nhà của các nhà khoa học. Nhưng cũng cần phải nhấn mạnh thêm rằng, chính nhận thức của các nhà nghiên cứu về nguồn tư liệu này chưa đúng đắn là một nguyên nhân quan trọng gây nên tình trạng này. Chính nhiều nhà khoa học cũng không xem đó là những nguồn tư liệu để có thể phục vụ nghiên cứu khoa học về chính họ và ngành khoa học của họ. Họ vẫn xem đó chỉ là những kỷ vật mang tính cá nhân mà không quan tâm đến giá trị lịch sử của tư liệu. Hiện nay, nhận thức này đang được thay đổi. Khi “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” được xuất bản, nhiều bác sĩ, nhiều nhà khoa học giật mình và xem lại những kỷ vật của mình, trong đó có nhiều nhật ký có giá trị lịch sử nhưng hàng chục năm nay vẫn nằm trong tủ hay bị hỏng, thất lạc. Nhiều nhà khoa học còn lưu giữ lại hàng trăm bức thư chứa đựng nhiều thông tin có giá trị lịch sử bởi họ đã tham gia, chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng. Xin được ví dụ: Hơn bốn trăm bức thư mà hai vợ chồng PGS Lê Sỹ Toàn, một bác sĩ tham gia nhiều chiến dịch ở Thượng Lào trong Kháng chiến chống Mỹ. Trong thư ông đã viết cho vợ về những khó khăn khi ông cùng đồng nghiệp xây dựng một bệnh viện trong các hang đá tại cánh đồng Chum ở Lào để cứu chứa thương binh mà có khi lên đến hàng ngàn người. Hay tâm sự với vợ về những suy nghĩ, trăn trở của người bác sĩ trong điều kiện chiến tranh… Hàng chục bức thư của GS Nguyễn Thúc Tùng, một bác sĩ có rất nhiều đóng góp trong việc xây dựng ngành Quân y ở Liên khu V viết về cho vợ. Hay 211 lá thư của vợ chồng GS Văn Tạo gửi cho nhau trong thời gian ông học tập ở Liên Xô (1961-1964). Trong thư chứa đựng nhiều thông tin về đời sống học thuật ở nơi ông học tập, về cuộc sống gia đình của cán bộ nghiên cứu khoa học ở Hà Nội thời điểm đó. Đặc biệt những bức thư năm 1963-1964 mang nhiều thông tin về một giai đoạn lịch sử của đất nước. Những suy tư, trăn trở như vậy không có một nguồn thông tin nào khác ngoài thư và nhật ký thể hiện được.

Một nguyên nhân khác là trong một giai đoạn nhất định, đã tồn tại quan niệm cho rằng chỉ những nhà khoa học lớn, nổi tiếng và có nhiều đóng góp mới được cho là có những di sản cần lưu trữ. Và tất yếu, chỉ những công trình quan trọng nhất của nhà khoa học mới là di sản chứ không phải tất cả mọi thứ liên quan đến cuộc đời của nhà khoa học đó. Cách tư duy này ngày càng thể hiện sự bất hợp lý khi rất nhiều những tư liệu lưu trữ về các nhà khoa học không được quan tâm đúng mức. Nhiều vấn đề về lịch sử khoa học, lịch sử giáo dục và một phần nào đó là lịch sử dân tộc không thể giải thích được do thiếu những tư liệu liên quan đến cuộc đời của các nhân vật, trong đó có các nhà khoa học đã tham gia vào quá trình, sự kiện đó.

2. Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam ra đời – một sự thay đổi tư duy về di sản các nhà khoa học và lưu trữ tư liệu lịch sử cuộc đời các nhà khoa học Việt Nam

Sự ra đời và các hoạt động của Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam

Năm 2005, Bảo tàng Dân tộc học tổ chức trưng bày về cuộc đời của nhà dân tộc học nổi tiếng Nguyễn Đức Từ Chi (1925-1995). Cuộc trưng bày đã tạo ra tiếng vang lớn: đó là cuộc trưng bày đầu tiên ở Việt Nam về một nhà khoa học bình thường (chứ không phải là một lãnh tụ cách mạng). Những người làm trưng bày đã vận dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử cuộc đời vào quá trình thực hiện và nguồn tư liệu họ sử dụng cũng phong phú với việc khảo sát các trước tác của Từ Chi, họ đã lần theo những bước chân của Từ Chi trên con đường nghiên cứu dân tộc học để cảm nhận và tìm lại những câu chuyện, những ký ức của những người từng làm việc bên cạnh ông để kể những câu chuyện liên quan đến cuộc đời khoa học của ông. Họ cũng khai thác những bức thư, sổ ghi chép, nhật ký điền dã, các bản thảo khoa học để nói lên cuộc đời và công việc của Từ Chi. Cuộc trưng bày này được thực hiện nhân dịp kỷ niệm 10 năm ngày mất của Nguyễn Đức Từ Chi nhưng tác động của nó lại vượt ra ngoài sự mong đợi của những người tham gia. Cuộc trưng bày không chỉ nói về cuộc đời của Từ Chi mà đã đặt ra rất nhiều câu chuyện liên quan đến lịch sử khoa học, giáo dục và nhiều vấn đề lịch sử dân tộc trong đó. Và thật thú vị khởi nguồn từ cuộc trưng bày này lại là việc Bảo tàng nhận được một khối tư liệu từ gia đình và học trò của Từ Chi lưu giữ đang có nguy cơ bị hư hỏng, mất mát. Sau cuộc trưng bày, những người tham gia đã đặt vấn đề tương tự cho nhiều nhà khoa học khác. Trong đó, người chỉ đạo trực tiếp, PGS.TS Nguyễn Văn Huy đã đặt ý tưởng về một Trung tâm tư liệu lịch sử cuộc đời các nhà khoa học và một bảo tàng khoa học của đất nước.

Cùng thời điểm đó, một nhóm các nhà khoa học hoạt động ở lĩnh vực Y học cũng đưa ra ý tưởng xây dựng một cơ sở lưu trữ các luận án của các Tiến sĩ hoạt động trong lĩnh vực Y học để bày tỏ lòng tri ân của học trò đối với những người thầy của mình. Hai ý tưởng trên gặp nhau khi họ mời PGS.TS Nguyễn Văn Huy về làm Giám đốc Chuyên môn Trung tâm này. Đó là bối cảnh hình thành Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam – một Trung tâm lưu trữ về tư liệu lịch sử cuộc đời các nhà khoa học Việt Nam.

Sự hình thành Trung tâm Di sản các nhà khoa học cũng góp phần mở rộng khái niệm di sản khi xem tất cả những tài liệu liên quan đến lịch sử cuộc đời các nhà khoa học như các sổ ghi chép, nhật ký, thư từ, giấy tờ cá nhân, công văn, quyết định, bản thảo khoa học, bản đánh giá, góp ý, các công trình khoa học, các ảnh tư liệu, các băng đĩa ghi âm, ghi hình… và cả ký ức của nhà khoa học đều là di sản. Có thể còn cần thời gian để khẳng định lại, nhưng rõ ràng sự ra đời và hoạt động của Trung tâm đã tác động sâu sắc đến tư duy của các nhà khoa học cũng như những người làm lưu trữ ở Việt Nam.

Nhận thức về di sản các nhà khoa học hay các nguồn tư liệu lịch sử cuộc đời các nhà khoa học có ảnh hưởng đến việc phân loại di sản các nhà khoa học, Trung tâm Di sản các nhà khoa học thực hiện phân loại tài liệu theo hướng năng động, mở rộng tính hợp lưu để đón nhận và cải tiến các phương pháp sao cho phù hợp với chức năng và nhiệm vụ của Trung tâm.

Theo tính chất của tài liệu, có thể phân chia thành: tài liệu giấy, hiện vật khối, tài liệu hình ảnh và tài liệu âm thanh. Di sản ký ức (được lưu giữ lại qua băng ghi hình, băng ghi âm) được Trung tâm xem là một dạng tài liệu đặc biệt quan trọng.

Việc phân loại các tư liệu ngoài ý nghĩa nghiên cứu còn có ý nghĩa trong việc bảo quản tài liệu hiện vật. Bởi các chất liệu khác nhau sẽ phải được bảo quản trong các điều kiện nhiệt độ, độ ẩm khác nhau. Ở Trung tâm, kho phim ảnh thường được bảo quản ở nhiệt độ 16-200C, độ ẩm 50-55%; …, kho tài liệu giấy bảo quản ở nhiệt độ 24-260C, độ ẩm 50-65%; và kho hiện vật khối phải được bảo quản ở nhiệt độ 22-240C, độ ẩm 50-60%;

Sự thay đổi trong hoạt động lưu trữ tài liệu lịch sử cuộc đời các nhà khoa học Việt Nam.

Trước hết, cần khẳng định rằng sự thành công bước đầu của Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam được bắt nguồn từ sự đổi mới tư duy và phương pháp cùng sự linh hoạt trong cơ chế hoạt động, quản lý.

Cách tư duy mới trong hoạt động chuyên môn như là một đòn bẩy cho sự phát triển của Trung tâm. Công tác nghiên cứu, sưu tầm tư liệu di sản các nhà khoa học chưa có tiền lệ ở Việt Nam. Mọi việc với Trung tâm đều bắt đầu từ những thử nghiệm. Đó là một khó khăn lớn đối với Trung tâm. Từ những ngày đầu thành lập, phương châm vừa làm, vừa học vừa rút kinh nghiệm được đề cao. Các cộng tác viên có nhiều kinh nghiệm ở các lĩnh vực khác nhau luôn giúp đỡ các nghiên cứu viên trẻ. Trong các công việc Trung tâm thể hiện thái độ cầu thị, luôn theo dõi, lắng nghe ý kiến từ dư luận và từ các nhà khoa học. Mời các chuyên gia nước ngoài đến tham quan, trao đổi ý tưởng và phương pháp. Nhiều nhà khoa học nước ngoài trở thành những người bạn đồng hành với Trung tâm như GS Hồ Huệ Tâm, GS Michiel Thompson (Mỹ), Susan Bayly (Anh)… Qua những giao lưu, trao đổi, chia sẻ ý tưởng, kinh nghiệm, Trung tâm thường xuyên tiếp nhận những kinh nghiệm về nội dung chuyên môn cũng như phương pháp tiếp cận.

Trung tâm đặc biệt quan tâm xác định về đối tượng nghiên cứu. Trung tâm xem nền khoa học Việt Nam như một bức thảm dệt đa màu sắc. Mỗi nhà khoa học là một sợi chỉ dệt nên bức tranh đó. Có những sợi chỉ sắc mầu nổi trội, có những sợi chỉ nhạt hơn, ẩn sâu vào bức tranh tạo nên những nét trầm của nó. Nhưng tất cả sợi chỉ và sắc mầu đều góp phần tạo nên bức tranh đó. Nếu bỏ một sợi chỉ, một sắc mầu ra khỏi bức tranh thì bức tranh không còn là bức tranh đẹp nữa. Do không đủ sức triển khai đồng loạt, Trung tâm đã trao đổi và xin ý kiến các nhà khoa học trong các lĩnh vực, nhất là những người có uy tín và nhiều kinh nghiệm giới thiệu cho Trung tâm những nhà khoa học trong lĩnh vực đó để lập hồ sơ ưu tiên nghiên cứu sâu, sưu tầm tư liệu. Những nhà khoa học khác nếu có điều kiện vẫn tiếp nhận hồ sơ và tài liệu của họ để lưu trữ mà không từ chối một trường hợp nào.

Bên cạnh thay đổi tư duy về đối tượng, Trung tâm cũng thay đổi tư duy về tài liệu sưu tầm. Trung tâm chú trọng đến các tài liệu gắn liền với cuộc đời của nhà khoa học, không những các tài liệu độc bản, bản gốc như các sổ ghi chép, nhật ký, thư từ, bản thảo, ảnh tư liệu mà cả những hiện vật thể khối như trang phục, các bộ dụng cụ hành nghề (dụng cụ mổ…), đồ dung sinh hoạt (xe đạp, ca cốc uống nước…) Nhiều nội dung mới được xây dựng như di sản ký ức, kinh nghiệm của nhà khoa học được ghi lại bằng video, ghi âm.

Về phương pháp tiếp cận, nghiên cứu về lịch sử cuộc đời các nhà khoa học là nghiên cứu nhân vật nên tiếp cận nhân học là phương pháp chủ yếu. Ở đây, cụ thể là phương pháp nghiên cứu lịch sử cuộc đời. Theo ông Kim Văn Chiến (2011), trên thế giới, phương pháp nghiên cứu lịch sử cuộc đời được vận dụng từ đầu thế kỷ XX. Các nhà nhân học trường phái Chicago ở Mỹ là những người đi tiên phong trong vận dụng và phát triển phương pháp này để tìm hiểu về cuộc đời của những người sống ở các khu ổ chuột với tên gọi là câu chuyện cuộc sống (life story). Ở phương Tây, phương pháp này được biết đến với tên gọi là câu chuyện đường đời và các nhà nhân học Pháp sử dụng tương đối phổ biến. Từ giữa thế kỷ XX, chủ nghĩa thực chứng phát triển thì phương pháp lịch sử cuộc đời (thiên về định tính) bị hạn chế dần và mất vai trò đến cuối thập niên 1970 mới được phục hồi.

Nghiên cứu lịch sử cuộc đời các nhà khoa học cần sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, hay nói cách khác là sử dụng nhiều thao tác, kỹ năng khác nhau từ nghiên cứu tư liệu lưu trữ, phỏng vấn, khai thác thông tin từ các nhân vật, nhân chứng, kiểm chứng, đối chứng thông tin đa chiều, kể cả tư liệu thành văn để hiểu về các sự kiện, bối cảnh và nhân vật. Nghiên cứu lịch sử cuộc đời các nhà khoa học, một mặt đi sâu theo chiều lịch đại, nghiên cứu tư liệu về các thế hệ trong gia đình, dòng họ để đẩy giá trị tư liệu và thông tin lên hàng trăm năm. Mặt khác, từ nhà khoa học, mở rộng ra bối cảnh gia đình, trường học, cơ quan, bối cảnh trong nước và bối cảnh quốc tế. Như vậy, lịch sử cuộc đời của nhà khoa học, không chỉ là lịch sử của chính họ mà còn là một phần của lịch sử ngành nghề, lịch sử dân tộc.

Phỏng vấn trong nghiên cứu lịch sử cuộc đời giữ một vai trò quan trọng. Các nhà khoa học, sau nhiều năm hoạt động khoa học và xã hội, họ đã tham gia nhiều sự kiện và có nhiều trải nghiệm cuộc sống. Những trải nghiệm, kinh nghiệm chỉ một phần nào đó đã được họ đúc kết và viết ra thành các ấn phẩm. Nhưng còn nhiều vấn đề, nhiều suy nghĩ, trăn trở vẫn còn lưu trong bộ não của nhà khoa học mà do nhiều điều kiện chủ quan và khách quan họ chưa thể truyền đạt ra với những người khác. Khi nhà khoa học qua đời, những trải nghiệm, kinh nghiệm đó cũng mất đi cùng với họ. Vì thế phải cấp cứu ngay những di sản ký ức của nhà khoa học, tức là tiếng nói của người trong cuộc, người chứng kiến hay tham gia vào những sự kiện lịch sử. Những ký ức của họ sẽ làm sáng tỏ các nội dung và bối cảnh của các tài liệu lưu trữ gắn liền với họ, nếu không được họ giải thích sẽ rất khó hiểu hết và đầy đủ ý nghĩa.

 

Ngày nay, với phương tiện kỹ thuật hiện đại để ghi hình, ghi âm những câu chuyện, những lời kể của các nhà khoa học, cho phép những nhà nghiên cứu và nhà lưu trữ có thể lưu giữ được những di sản ký ức để làm tư liệu dưới dạng âm thanh, hình ảnh. Một trong những thành công của Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam là tổ chức được hàng trăm cuộc phỏng vấn ghi âm, ghi hình các nhà khoa học về lịch sử cuộc đời của họ, đặc biệt gắn với nguồn tài liệu mà họ cung cấp. Những hoạt động này cũng tác động đến nhận thức của chính các nhà khoa học trong việc lưu lại ký ức của mình. Một trong những trường hợp đó là GS Văn Tạo. Năm nay 86 tuổi sau khi được Trung tâm Di sản khích lệ, ông đã tự mình xem lại các tư liệu và tự thu âm lại những câu chuyện, những kỷ niệm của mình từ quê hương, gia đình, quá trình học tập, các câu chuyện về các buổi gặp với các nhà chính trị như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp, Trường Chinh, hay các nhà khoa học gần gũi với ông như Trần Huy Liệu, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo… Sau khi thu âm lại, ông đặt tên cho bộ sưu tập băng ghi âm này là “Một thế kỷ qua những mẩu chuyện đời” với hơn 90 băng và tặng lại cho Trung tâm lưu giữ để phục vụ cho nghiên cứu khoa học. Những di sản ký ức của nhà khoa học là vô cùng quý giá nhưng sử dụng tài liệu này cần phải kiểm chứng thông tin, đối chiếu với nhiều nguồn khác nhau vì cơ sở của nguồn tài liệu này là trí nhớ. Mà trí nhớ về một sự kiện đã xẩy ra sau hàng chục năm thì chính nhà khoa học cũng có thể nhầm. Vậy nên muốn sử dụng nguồn tài liệu này phải đối chiếu được thông tin từ phỏng vấn nhà khoa học này với phỏng vấn các nhân vật khác có liên quan hay cùng chứng kiến, hay đối chiếu thông tin với các nguồn tư liệu khác nhất là các văn kiện, tài liệu lịch sử đương thời.

Quy trình sưu tầm, quản lý và nghiên cứu tư liệu lịch sử cuộc đời nhà khoa học của Trung tâm được chia thành các công đoạn khác nhau: Bắt đầu bằng lựa chọn và xác định đối tượng. Tùy theo chuyên đề nghiên cứu mà nghiên cứu viên đề xuất các nhà khoa học hoặc được chính các nhà khoa học đã tiếp cận giới thiệu cho Trung tâm. Sau khi xác định đối tượng thì tiến hành lập hồ sơ thông tin về đối tượng, tức lấy thông tin từ các nguồn khác nhau để tìm hiểu về đối tượng nghiên cứu của mình. Sau đó tiến hành tiếp cận nhà khoa học để đặt vấn đề sưu tầm các tư liệu. Các tài liệu sưu tầm được về Trung tâm và trải qua một quy trình xử lý từ vệ sinh, phân loại bước đầu, lập danh mục tài liệu, đánh số ký hiệu, bọc giấy chống ẩm và đưa vào các hộp bảo quản để chuyển vào kho lưu trữ. Đối với một số tài liệu quý, Trung tâm thực hiện scan để số hóa tài liệu bằng scan chất lượng cao.

3. Một số vấn đề đặt ra

Sau 4 năm hoạt động, Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam đã có những tác động nhất định đến nhiều vấn đề về lưu trữ tư liệu các nhà khoa học và nghiên cứu lịch sử cuộc đời các nhà khoa học. Những bước đi đầu tiên của Trung tâm đã nhận được sự ủng hộ và giúp đỡ của nhiều nhà khoa học và nhận được sự đồng tình của xã hội. Tuy nhiên nó cũng đặt ra nhiều vấn đề cần được suy nghĩ.

Tư liệu cá nhân thuộc sở hữu gia đình và do các gia đình lưu giữ vẫn chưa được nhận thức rõ ràng và hợp lý trong định hướng lưu trữ. Trong điều kiện khí hậu ẩm như nước ta, tài liệu không được bảo quản đúng quy chuẩn lưu trữ rất dễ hư hỏng và thực tế đã hư hỏng phần lớn số tài liệu cá nhân. Trong khi đó, việc hình thành và khuyến khích các tổ chức lưu trữ ngoài công lập vẫn chưa được khuyến khích và pháp luật bảo hộ. Chúng ta đang nỗ lực xã hội hóa nhiều lĩnh vực, bao gồm một phần tư nhân hóa, từ kinh tế đến các hoạt động dịch vụ văn hóa, bảo tàng, thư viện. Nên việc xã hội hóa công tác lưu trữ tư liệu cá nhân tư nhân cần được Nhà nước quan tâm và bổ sung vào Luật Lưu trữ chính sách hỗ trợ nhằm thúc đẩy các loại hình lưu trữ ngoài công lập.

Và cuối cùng, như một bài học kinh nghiệm lớn nhất của Trung tâm trong mấy năm hoạt động là vấn đề xây dựng một Trung tâm đa chức năng. Không chỉ đơn thuần tiến hành hoạt động lưu trữ tư liệu các nhà khoa học, mà Trung tâm còn làm công tác nghiên cứu, công tác của một thư viện và một bảo tàng về các nhà khoa học. Hiện tại, Trung tâm đang tiến hành xây dựng Dự án Công viên các nhà khoa học tại Hòa Bình trên diện tích gần 30ha. Bên cạnh đó, trên cơ sở tư liệu về các nhà khoa học, Trung tâm đã tiến hành các nghiên cứu để cho ra các sản phẩm như sách, sách ảnh, các trưng bày và một website dữ liệu về các nhà khoa học (www. cpd.vn). Năm 2011, Trung tâm đã xuất bản cuốn sách “Di sản ký ức của nhà khoa học” (H-Tri thức, 2011) tập I là sản phẩm đầu tiên của quá trình nghiên cứu tư liệu về cuộc đời các nhà khoa học. Năm 2012, cuốn sách ảnh Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam giới thiệu về Trung tâm thông qua một cuộc trưng bày dự kiến và trưng bày ảo về 5 nhà y học Việt Nam hiện đại được xuất bản. Hiện nay Trung tâm đang chuẩn bị xuất bản cuốn “Di sản ký ức của nhà khoa học” tập II vào tháng 11-2012. Chính với mô hình hoạt động đa chức năng đã làm đòn bẩy để Trung tâm đẩy mạnh công tác sưu tầm, lưu trữ tư liệu về các nhà khoa học Việt Nam, thúc đẩy việc nghiên cứu, giới thiệu lịch sử cuộc đời các nhà khoa học Việt Nam.

PGS.TS Nguyễn Văn Huy

CN Bùi Minh Hào

Th.S Nguyễn Thanh Hóa

_____________________

Tài liệu tham khảo:

Nhật ký Đặng Thùy Trâm. Vương Trí Nhàn biên tập. Nxb Hội Nhà văn, 2005.

Mãi mãi tuổi hai mươi. Đặng Vương Hưng sưu tầm và biên soạn. Nxb Thanh niên, 2005.

James G. Zumwalt: Chân trần chí thép. Đỗ Hùng dịch, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2011.

Kim Văn Chiến: Câu chuyện đường đời – Một cách tiếp cận nghiên cứu định tính trong khoa học xã hội. Tạp chí Xã hội học, số 1-2011.

GS Văn Tạo: Một thế kỷ qua những mẩu chuyện đời. Băng ghi âm tự thuật về cuộc đời. Tư liệu của Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam.