PGS.TS Lương Chi Mai sinh ra trong một một gia đình trí thức ở Hà Nội. Bà tốt nghiệp ngành Toán ứng dụng tại Trường Đại học tổng hợp Kishinhop, Liên Xô năm 1982. Sau khi tốt nghiệp đại học, bà về nước và công tác tại nhóm Nhận dạng vừa mới được thành lập của Viện Khoa học tính toán và điều khiển thuộc Viện Khoa học Việt Nam (nay là Viện Công nghệ Thông tin – Viện Hàn lâm KHCNVN). Kể từ đó bà luôn gắn bó với chuyên ngành Nhận dạng và bà là nhân tố quan trọng trong việc đưa nhóm Nhận dạng trở thành Phòng Nhận dạng và Công nghệ tri thức – một tập thể nghiên cứu và triển khai mạnh của Viện CNTT, và là một phần của Phòng Thí nghiệm trọng điểm quốc gia về công nghệ mạng và đa phương tiện.
Hơn 30 năm cống hiến cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học, PGS.TS Lương Chi Mai, hiện là Phó Viện trưởng Viện Công nghệ thông tin – Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam, đã có nhiều thành tích nổi bật trong lĩnh vực Nhận dạng và Công nghệ tri thức. Các lĩnh vực nghiên cứu chính của bà bao gồm: Các cách tiếp cận phân loại dữ liệu không gian và nhận dạng ảnh; Nhận dạng ký tự quang học tập trung cho nhận dạng ký tự Việt; Nhận dạng tiếng nói và xử lý ngôn ngữ tự nhiên tiếng Việt. Các chủ đề nghiên cứu này thường xuất phát từ việc tìm giải pháp cho một số vấn đề đang được quan tâm trong lĩnh vực nhận dạng, hoặc giải quyết một số vấn đề nghiên cứu ứng dụng ở Việt Nam.
PGS.TS Lương Chi Mai nhận giải thưởng Kovalevskaia 2010
Phân tích, xử lý dữ liệu không gian và nhận dạng ảnh: bà đã bắt đầu tìm hiểu bài toán nhận dạng với những ứng dụng cụ thể của nó từ những năm 80 của thế kỷ XX. Trên cơ sở nghiên cứu các thuật toán nhận dạng heuristic và tính chất của chúng, bà đã nghiên cứu thành công phương pháp tăng hiệu quả nhận dạng và ứng dụng trong phân tích, xử lý dữ liệu viễn thám… và cho ra đời hệ nhận dạng RECLASS với một số khả năng tự động tạo sinh các thủ tục nhận dạng hiệu quả. Kết quả được trình bày tại một hội nghị khoa học của IFIP (Liên đoàn Quốc tế xử lý thông tin) tổ chức lần đầu tiên tại Hà Nội năm 1983.
Trên cơ sở những kinh nghiệm làm việc với hệ thống xử lý ảnh viễn thám của CHDC Đức khi thực tập tại Robotron (Berlin) những năm 1983-1987, ứng dụng trên ảnh viễn thám từ vệ tinh LANDSAT 4 của vùng Đồng bằng Nam Bộ, bà đã tập trung nghiên cứu cải tiến tăng tốc độ của các thuật toán nhận dạng ảnh theo cách tiếp cận thống kê Bayes dựa trên tính đồng nhất của các pixel trên cùng miền. Trong các năm 1987-1989, bà được mời làm cộng tác viên khoa học, làm việc tại Phòng Thí nghiệm quốc tế về trí tuệ nhân tạo tại Viện Điều khiển học kỹ thuật Bratislava – Viện Hàn lâm khoa học Slovakia. Tại đây, bà đã được tiếp cận với các thuật toán và môi trường tính toán song song, và đã tiến hành song song hoá các thủ tục tính toán của một số thuật toán nhận dạng như thuật toán phân loại Bayes và thủ tục phân lớp K-means trên môi trường tính toán song song kiểu SIMD (Single Instruction – Multiple Data). Các kết quả này đã được báo cáo và đăng trong tuyển tập Hội nghị quốc tế lần thứ 5 về trí tuệ nhân tạo và các hệ thống thông tin điều khiển cho Robot. Cũng trong thời gian này, bà bắt đầu nghiên cứu về các dạng ảnh đường nét, tập trung vào các thuật toán biểu diễn cô đọng và chính xác các đường biên của vùng ảnh. Các nghiên cứu này cũng là những nội dung chính trong Luận án phó tiến sỹ của bà, được thực hiện tại Phòng Thí nghiệm quốc tế về trí tuệ nhân tạo – Viện Điều khiển học kỹ thuật Bratislava và bảo vệ thành công tại Viện CNTT đầu năm 1992. Những năm tiếp theo (1991-1997), bà đã cùng với các đồng nghiệp của nhóm Nhận dạng và xử lý ảnh nghiên cứu các thuật toán vectơ hoá ảnh đường nét trên bản đồ và cùng phát triển phần mềm MapScan với mục đích nhập bản đồ tự động thay cho dùng bộ số hoá (digitizer). Phần mềm này được đặt hàng và trợ giúp kỹ thuật của Cơ quan Thống kê Liên hợp quốc phục vụ cho dự án: Phần mềm máy tính trợ giúp cho các hoạt động dân số “INT 92/P23”. Phần mềm cùng với hệ thống PopMap (là một hệ thống cơ sở dữ liệu địa lý, dân số) đã được sử dụng tại hơn 100 nước đang phát triển.
Nhận dạng ký tự chữ Việt in: Trong những năm 1989-1990, bà cùng nhóm Nhận dạng bắt đầu thử nghiệm về khả năng áp dụng các thuật toán nhận dạng cho nhận dạng ảnh ký tự (thuộc hệ latin) với cách tiếp cận đối sánh mẫu trên tư tưởng của phương pháp thống kê. Cùng với việc tiến hành nghiên cứu lý thuyết, nhóm Nhận dạng đã tập trung xây dựng sản phẩm phần mềm ADOR nhận dạng chữ latin. Năm 1997, bà và các cộng sự đã thiết kế, phát triển phần mềm nhận dạng chữ Việt in với tên gọi VnDOCR. Trong bối cảnh đẩy mạnh việc ứng dụng các thành tựu của CNTT ở nước ta, nhu cầu về một sản phẩm như vậy đang là đòi hỏi cấp bách. Các kết quả về phát triển các thuật toán nhận dạng chữ đã được áp dụng đầu tiên để xây dựng module tự động nhận dạng chữ trên bản đồ trong phần mềm MapScan. Nhận dạng ký tự quang học, đặc biệt là nhận dạng ký tự in, tuy không phải là một vấn đề nghiên cứu mới trong cộng đồng nghiên cứu về nhận dạng, nhưng do chữ Việt có một số đặc thù (có nhiều chữ cái hơn do có thêm 5 dấu thanh tổ hợp với các nguyên âm, các phông chữ chư¬a có chuẩn), do đó cần có những nghiên cứu tiếp cận công nghệ để đề xuất giải pháp thích hợp. Bà và các đồng nghiệp đã đề xuất cách tiếp cận tổ hợp và đã chứng tỏ tính hiệu quả của cách tiếp cận này trong chất lượng của phần mềm. Như vậy, về mặt ứng dụng, lần đầu tiên ở Việt Nam đã giải quyết cơ bản vấn đề máy đọc được các văn bản chữ Việt in, đáp ứng nhu cầu về tự động hoá lư¬u trữ, xử lý các văn bản chữ Việt. VnDOCR đã và đang được tiếp tục phát triển (hiện tại là VnDOCR 4.0), phục vụ cho hàng nghìn đơn vị trong và ngoài nước. Nội dung nghiên cứu và phát triển phần mềm VnDOCR lúc đầu thuộc nhánh “Nhận dạng và xử lý ảnh” mà bà chủ trì, nằm trong đề tài cấp nhà nước KHCN 01-10. Sau đó, VnDOCR được Phòng Nhận dạng và công nghệ tri thức tiếp tục đầu tư và phát triển cho đến nay. Các nghiên cứu trong việc xây dựng phần mềm VnDOCR cũng đã nhận được nhiều giải thưởng, trong đó có giải Nhất VIFOTEC năm 1999 và đã được đăng ký bản quyền.
Nhận dạng tiếng nói và xử lý ngôn ngữ tự nhiên tiếng Việt: Bắt đầu từ năm 2000, PGS.TS Lương Chi Mai đã tập trung nghiên cứu lĩnh vực nhận dạng tiếng nói tiếng Việt. Mặc dù thế giới đã có những bước tiến khá dài trong lĩnh vực nhận dạng và tổng hợp tiếng nói, song ở Việt Nam vấn đề này còn mới, khó và chưa có nhiều người nghiên cứu. Hơn nữa, nhu cầu giao tiếp với máy tính bằng tiếng Việt đang ngày càng cấp thiết bởi không phải lúc nào cũng có thể sử dụng các phần mềm nhận dạng và tổng hợp tiếng nói với ngôn ngữ là tiếng Anh. Qua quá trình nghiên cứu, đặc biệt là thông qua thực hiện các đề tài cấp nhà nước và cấp Viện Hàn lâm KHCNVN, bà đã tạo ra được nhiều sản phẩm có tính ứng dụng trong thực tế. Đây cũng chính là một trong những nội dung nghiên cứu của Phòng Thí nghiệm trọng điểm quốc gia về công nghệ mạng và đa phương tiện đặt tại Viện CNTT. Song song với việc tiếp cận các tri thức của cộng đồng làm nhận dạng và tổng hợp tiếng nói trên thế giới, bà và các cộng sự đã tiến hành những phân tích đặc thù về mặt ngữ âm, thanh điệu… trong tiếng Việt. Bà đã chủ động liên hệ với GS Fujisaki (chuyên gia nổi tiếng người Nhật Bản về mô hình Fujisaki – mô hình hóa thanh điệu và ngữ điệu tiếng nói) và áp dụng mô hình này trong mô hình hóa thanh điệu tiếng Việt. Đồng thời, bà cũng áp dụng thành công phương pháp tổng hợp dựa trên mô hình Markov ẩn (trước đó, mô hình này chỉ áp dụng cho bài toán nhận dạng) trên cơ sở tham số từ dữ liệu. Ưu điểm nổi bật của phương pháp này là cho phép sinh tiếng nói từ tham số, dễ dàng thay đổi đặc điểm giọng nói, dễ áp dụng cho các ngôn ngữ khác nhau.
Đến nay, PGS.TS Lương Chi Mai đã công bố gần 50 công trình nghiên cứu và đã viết 4 cuốn sách làm tài liệu tham khảo có giá trị cho sinh viên đại học và học viên cao học trong lĩnh vực CNTT như: “Nhập môn đồ hoạ máy tính”; “An Introduction to Computer Vision and Image Processing”;… Ngoài ra, PGS.TS Lương Chi Mai cũng là chủ nhiệm của nhiều đề tài cấp nhà nước và tham gia thực hiện nhiều đề tài, dự án triển khai ứng dụng các cấp. Bà cùng tập thể nghiên cứu phòng Nhận dạng và Công nghệ tri thức đạt nhiều giải thưởng có giá trị như: Giải Nhất sản phẩm CNTT ưa chuộng nhất 1999-2003; Huy chương Vàng sản phẩm phần mềm đạt doanh số cao 2000, 2001 (cho sản phẩm VnDOCR)…
PGS.TS Lương Chi Mai cũng là nhân tố tích cực trong việc thực hiện các dự án nghiên cứu quốc tế. Bà là thành viên chủ trì trong nhóm nghiên cứu của Việt Nam tham gia dự án A-STAR (Asian Speech Translation Advanced Research) với sự tham gia của 8 nước Châu Á để nghiên cứu xây dựng các hệ thống dịch tiếng nói sang tiếng nói thông qua mạng máy tính trong khu vực châu Á năm 2008-2009. Dưới sự chủ trì của đối tác Nhật Bản (Viện Nghiên cứu thông tin và truyền thông, NICT – Kyoto), bà cùng với cộng sự đã và đang tiến hành những nghiên cứu tiếp theo về nhận dạng tiếng Việt liên tục, tổng hợp tiếng Việt, dịch tự động Anh – Việt, Việt – Anh trong lĩnh vực du lịch. Hệ thống trên tiếng Việt đã được tích hợp vào Hệ thống dịch tiếng nói sang tiếng nói giữa các ngôn ngữ: Anh, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Inđonêxia, Hindi, Malaixia và đã có cuộc trình diễn quốc tế vào ngày 29.7.2009 . Hiện nay, bà là thành viên Tổ chức các nhà khoa học nữ của thế giới thứ ba – TWOWS (Third World Organization for Wormen in Sciences) và tham gia trong Ban chương trình của nhiều Hội nghị quốc tế chuyên ngành.
Ở cương vị Phó Viện trưởng Viện CNTT từ năm 2001 đến nay, PGS.TS Lương Chi Mai luôn hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, tạo được uy tín cá nhân trong các hoạt động hợp tác với nhiều cơ sở trong nước và quốc tế. Với những thành tích và cống hiến xuất sắc trong khoa học, PGS.TS Lương Chi Mai đã được nhận Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ KH&CN, Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam; Giải thưởng cán bộ nữ xuất sắc trong lĩnh vực CNTT năm 1999… PGS.TS Lương Chi Mai cũng chính là một trong hai nhà khoa học nữ được Ủy ban Giải thưởng Kovalevskaia trao tặng Giải thưởng năm 2010.
Thành công của PGS.TS. Lương Chi Mai là niềm tự hào của các nhà khoa học nữ Viện Hàn lâm KHCNVN nói riêng và của chị em phụ nữ trong cả nước nói chung. Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8/3, chúc PGS.TS Lương Chi Mai luôn vui khoẻ trong cuộc sống, gặt hái được nhiều thành công hơn nữa trong sự nghiệp nghiên cứu của mình.
Minh Tâm