Hôm nay, gặp lại người anh hùng ấy tại cư gia của ông, GS và phu nhân đã tiếp tôi trong một không khí ấm cúm thân mật của gia đình. Nhà khoa học đầu tiên ấy còn quá trẻ so với tuổi 75 của mình. Ông đã có 50 năm tròn cống hiến cho nền y học nước nhà.
Năm 1960 chàng trai trẻ xứ Thanh Lê Đăng Hà tốt nghiệp Đại học Y khoa, một ngành học hấp dẫn đối với đa số bạn trẻ. Câu nói: “Nhất y, nhì Dược” còn ám ảnh mãi đến hôm nay. Ra trường, được giữ lại làm cán bộ giảng dạy, ngay từ những ngày đầu bác sĩ Hà vừa làm tốt nhiệm vụ trên bục giảng, vừa điều trị các bệnh nhân tại Khoa Truyền nhiễm bệnh viện Bạch Mai, đồng thời hăng hái tham gia các đợt chống dịch do Bộ Y tế điều động. Ở nơi nào, BS Lê Đăng Hà cũng tỏ rõ sự tận tụy, tận tâm, hết lòng vì người bệnh. Những năm chống Mỹ cứu nước ác liệt, BS Lê Đăng Hà thường xuyên có mặt ở những vùng tuyến lửa Hải Phòng, Nghệ An, Hà Nam Ninh cùng với đội ngũ y tế “Lương y như từ mẫu” dập tắt nhiều ổ dịch tả, sốt xuất huyết, dịch hạch…vv, đem lại sự sống và hạnh phúc cho hàng ngàn gia đình.
Năm 1995 dịch thương hàn lan rộng trên phạm vi 42 tỉnh, thành phố, với 30.406 người mắc bệnh. Tại Viện Y học lâm sàng các bệnh nhiệt đới, có hàng nghìn bệnh nhân điều trị. GS Hà sau nhiều trăn trở, đã chủ động đề xuất một phác đồ điều trị mới lên Bộ Y tế, đồng thời tổ chức tập huấn cho các bác sỹ. Nhờ đó, dịch thương hàn bị đẩy lùi. Từ năm 1995- 2004 với cương vị chủ nhiệm Chương trình giám sát kháng sinh của Bộ Y tế, GS đã cộng tác và chỉ đạo các phòng xét nghiệm vi sinh lớn ở Trung tâm Hà Nội, Huế, TP.HCM, theo dõi chặt chẽ và phát hiện tình hình kháng thuốc của các loại vi khuẩn, chỉ đạo việc hàng tháng xuất bản 4 số thông tin đặc biệt, hướng dẫn các địa phương trong toàn quốc, kịp thời khắc phục hướng điều trị kiểu cũ, kiên quyết điều trị theo các phác đồ mới phù hợp và hiệu quả.
Ở cương vị nào, GS Lê Đăng Hà cũng có những cống hiến và đóng góp xuất sắc. Ở ông, có sự kết hợp chặt chẽ giữa tâm đức của người thầy thuốc và tài năng của một nhà khoa học đầu ngành. Vì thế, ông luôn được các đồng sự tin yêu, nhân dân tin cậy và quý trọng.
Khi dịch HIV/AIDS bắt đầu lan ra nước ta GS Hà lại được bổ nhiệm làm Trưởng ban điều trị và chăm sóc bệnh nhân HIV/AIDS. 15 năm qua, bằng những hoạt động và đóng góp tích cực hiệu quả của mình, GS Hà và các cán bộ y tế Việt Nam đã tiến hành liên tục, kiên trì hàng loạt các hoạt động như tổ chức hội thảo toàn quốc về thu nhận và chăm sóc bệnh nhân, tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân đại dịch này, kêu gọi tài trợ quốc tế, viết sách hướng dẫn điều trị HIV/AIDS, chống kỳ thị và phân biệt đối xử với các bệnh nhân…vv. Đến nay, việc điều trị HIV/AIDS của nước ta, về cơ bản đã đi vào nề nếp, với nhiều dấu hiệu chuyển biến tích cực.
Song, đỉnh cao của tài năng, trí tuệ và đóng góp xuất sắc đạt tầm cỡ anh hùng của GS Lê Đăng Hà chính là chiến dịch 50 ngày tổng tiến công, chặn đứng và dập tắt ổ dịch SARS tại Việt Nam do GS phụ trách. Đầu năm 2003, từ một ổ dịch nhỏ tại một bệnh viện Quảng Đông, ngày 21/2 nhưng chỉ trong 20 ngày sau đã bùng phát thành đại dịch khắp Đông Nam Á và thế giới. SARS lây lan với một tốc độ rất nhanh qua đường hô hấp, nặng và tỷ lệ tử vong cao. Cả thế giới bàng hoàng khi lần đầu tiên tiếp xúc với căn bệnh lạ chưa từng có.
Tới ngày 5/3/2003 đại dịch SARS đổ bộ vào Việt Nam, nhiều cán bộ y tế của bệnh viện Việt- Pháp phải tạm ngừng tiếp nhận bệnh nhân. Bộ y tế đã lập tức ra quyết định giao cho Viện Y học lâm sàng các bệnh nhiệt đới quốc gia trực tiếp thu nhận và điều trị tất cả các bệnh nhân SARS, tất cả các nhân viên của y tế bệnh viện Việt- Pháp đã nhiệm bệnh. GS Lê Đăng Hà lại một lần nữa phải đương đầu với nhiệm vụ cực kỳ trọng đại. Ông hiểu đây là biểu hiện sự tin tưởng tuyệt đối của ngành Y tế và nhân dân cả nước giao phó, vì thế chỉ có một con đường là hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Song điều trị theo hướng nào, trong khi y văn thế giới chưa hề miêu tả căn bệnh này?
Với cương vị là Viện trưởng, GS Hà đã đặt quyết tâm tìm mọi biện pháp chặn đứng dịch SARS, không để bệnh lây lan ra cả cộng đồng, giảm thiểu tiêu vong cho người bệnh. Trong cuộc họp toàn thể cán bộ nhân viên của Viện, vị GS đầu ngành đã bình tĩnh thông báo tình hình diễn biến của đại dịch SARS, động viên, làm tốt công tác tư tưởng cho mọi người, cùng quyết tâm dũng cảm lao vào cuộc chiến, đối diện với dịch bệnh trong tư thế người chiến sỹ trên mặt trận, với một tinh thần quyết chiến và quyết thắng.
Ngay từ đầu, GS Hà đã đề ra một biện pháp khắc phục triệt để, cách ly nghiêm ngặt các bệnh nhân với 3 khu riêng biệt: Khu bệnh nhân nặng, khu bệnh nhân nhẹ và khu buồng bệnh riêng biệt để tiếp nhận bệnh nhân mới vào khám và nhập viện. Mọi sinh hoạt ăn uống, chăm sóc cho bệnh nhân đều do cán bộ y tế đảm nhiệm. Cả Viện thực hiện chế độ làm việc 3 ca, 24/24 giờ. Bản thân GS Hà là tấm gương hy sinh quên mình, tận tụy chăm sóc người bệnh. Hình ảnh người Viện trưởng, với chiếc Blu trắng đi đến từng giường bệnh ân cần thăm hỏi, chăm sóc từng bệnh nhân theo phác đồ điều trị đã có tác động hết sức to lớn với đội ngũ thầy thuốc, nhân viên y tế và các bệnh nhân. Mọi người dần dần đồng tâm lại, xiết chặt đội ngũ, xốc tới, lao vào nhiệm vụ, vào công việc, giành giật từng giây sự sống cho mỗi người bệnh.
Một câu hỏi cấp bách khiến GS Viện trưởng trăn trở: Tại sao có một số bệnh nhân không hề tiếp xúc với người bệnh mà vẫn mắc bệnh? Phải chăng ở đây có một nguồn lây bệnh trung gian? Nguồn bệnh đó ở đâu? Bằng sự tinh nhạy của nghề nghiệp và kinh nghiệm của một nhà khoa học GS đã nhanh chóng tìm ra ổ dịch. Đó là những căn buồng trước đây vốn dùng làm nơi điều trị bệnh nhân, tuy hiện tại bệnh nhân đã xuất viện, song tàn dư bệnh lý và vi rút bệnh vẫn còn tồn tại. Muốn làm sạch không khí, cần phải có những máy thông khí áp lực âm, mỗi chiếc trị giá tới vài trăm triệu đồng. Trong điều kiện kinh tế của ta không thể nào giải quyết được, GS Viện trưởng đã đề xuất sáng kiến và biện pháp khắc phục. Ông cho mở hết cửa sổ buồng bệnh SARS, đóng kín cửa ra vào, dùng các quạt máy mạnh để thông gió, đẩy vi rút ra ngoài trời nắng, tự chúng sẽ bị tiêu diệt. Với sáng kiến này, trong gần 2 tháng điều trị bệnh nhân SARS, không có thêm một nhân viên y tế hay một bệnh nhân nào, do đó đã ngăn chặn hoàn toàn SARS lây ra cộng đồng, góp phần rất lớn về khống chế dịch SARS ở Việt Nam.
Tôi hỏi GS về tâm trạng và cảm nghĩ của ông trong những ngày tổng tấn công dịch SARS. Ông cười, chậm rãi nói: “Thú thực, lúc bấy giờ mình cũng hết sức lo lắng. Công việc và nhiệm vụ quả là khó khăn. Những lương tâm và trách nhiệm của người thầy thuốc, nhà khoa học không cho phép được dừng lại, càng không được buông xuôi, đầu hàng. Nhiều vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước hết sức quan tâm, lo lắng. Bộ trưởng Bộ Y tế Trần Thị Trung Chiến trực tiếp điện thăm hỏi thường xuyên. Điều đó càng củng cố quyết tâm của mình và đội ngũ.
Nghiên cứu kỹ các bệnh nhân SARS, GS Hà nhận thấy phần lớn các bệnh nhân nặng dẫn đến tử vong đều do viêm phổi cấp dẫn tới suy hô hấp. Như vậy phải chụp phổi hàng ngày cho bệnh nhân để theo dõi từng biến chuyển bệnh, phải thông khí nhân tạo để tăng cường ô xy. Cần nói thêm là ở các nước xảy ra dịch SARS đều dùng phương pháp thay khí nhân tạo xâm nhập (phải mổ khí quản hoặc đặt nội khí quản) và thở máy, thế mà tỷ lệ tử vong vẫn tới 10%. GS Hà đã thảo luận và thống nhất với các bác sĩ điều trị dùng phương pháp thông khí nhân tạo không xâm nhập (không mở khí quản, không đặt ống nội khí quản). Vì nếu mở khí quản sẽ dẫn đến tình trạng nhiễm khuẩn, dễ dẫn đến bội nhiễm viêm phổi trở lại. Cuộc chiến đấu âm thầm, lặng lẽ và quyết liệt giành giật sự sống trong tay tử thần diễn ra trong suốt chằng đường 50 ngày, kết quả tại Viện y học lâm sàng nhiệt đới, không có bệnh nhân nào bị tử vong, dịch không lây lan ra ngoài cộng đồng. Ổ dịch bị khoanh vùng, chặn đứng và bị tiêu diệt. Đó thực sự là một kỳ tích của ngành y tế Việt Nam, trong đó có vai trò đặc biệt quan trọng của GS Viện trưởng Lê Đăng Hà.
Ngày 28/4/2003 tổ chức Y tế thế giới thông báo trên toàn thế giới Việt Nam là nước đầu tiên đã khống chế được bệnh SARS, lúc ấy GS Hà lặng lẽ nghiên cứu trong phòng xét nhiệm. Những giọt nước mắt hạnh phúc cũng lặng lẽ đến cùng ông. Ngày 29/4/2003 Hội nghị thượng đỉnh các nước ASEAN họp ở Băng Cốc- Thái Lan chúc mừng thủ tướng Phan Văn Khải về thành công chống SARS ở Việt Nam. Rõ ràng cuộc chiến chống dịch SARS do GS Viện trưởng Lê Đăng Hà và các cộng sự của ông thực hiện đúng là một kỳ tích. GS Lê Đăng Hà đã vinh dự sang Đài Loan và cả Hội nghị quốc tế tổ chức tại Bắc Kinh để báo cáo về kinh nghiệm chống SARS của Việt Nam.
Do những công lao và cống hiến đặc biệt to lớn của GS, ngày 21/10/2009 Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam đã phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động cao quý cho GS Lê Đăng Hà. Đó là sự ghi nhận và đánh giá xứng đáng bởi những cống hiến xuất sắc của ông. Xin dẫn ra đây lời của bệnh nhân Việt kiều tại Ý- Nguyễn Hữu Hùng: “Tôi được sinh ra lần thứ hai trên đời. Chiến thắng dịch SARS là kỳ tích của dân tộc Việt Nam”.
GS- Anh hùng Lao động Lê Đăng Hà- niềm tự hào chói lọi ưu việt Việt Nam. 50 năm cống hiến trong ngành Y tế, ông đã có những đóng góp lớn lao, đã đào tạo hàng ngàn thầy thuốc, hàng trăm thạc sĩ và tiến sĩ. Vị anh hùng bác sỹ ấy vẫn sống giản dị, khiêm nhường như “Anh Hà” của chúng tôi từ những ngày xưa. Vẫn là một nhà khoa học hàng đầu đầy nhiệt huyết, sẵn sàng nhận ấn kiếm lên đường, đi bất cứ nơi đâu khi Đảng và nhân dân, những bệnh nhân hiểm nghèo cần đến.
Chúc ông luôn vui vẻ và hạnh phúc, tiếp tục dấn bước đương đầu với những thử thách mới trên con đường khoa học thênh thang đầy gian khổ và vẻ vang này.
Hà Nội, 28-03-2010
TS Trần Đăng Thao
Theo: Báo Giáo dục và Thời đại, số đặc biệt giữa tháng 4-2010