Một sự nghiệp nghiên cứu và sản xuất vắc-xin phòng bệnh

GS. TS. Lê Văn Hiệp

GS.TS. Lê Văn Hiệp sinh ngày 27/4/1949 tại Hà Nội. Năm 1967, tốt nghiệp trung học phổ thông, anh có nguyện vọng xin học chuyên ngành vật lý để phát huy năng khiếu. Năm đó không có thi tuyển đại học, Ban tuyển sinh thành phố và nhà trường chỉ định Lê Văn Hiệp học về Di truyền vi sinh, Chuyên ngành sinh học – Trường đại học Tổng hợp. Năm 1972, sau khi tốt nghiệp đại học loại giỏi, chàng trai Hà Nội được quyết định về làm cán bộ chọn giống tằm tại Chi cục Dâu tằm tỉnh Thái Bình.

 Khởi đầu sự nghiệp

Năm 1976, GS. Hoàng Thủy Nguyên và GS. Đặng Đức Trạch, lãnh đạo Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương (VSDTTW) quan tâm đến lĩnh vực di truyền trong vi sinh học, hướng đến nghiên cứu sản xuất vắc-xin, một vũ khí  cần thiết cho công tác phòng chống bệnh dịch đã tiếp nhận KS. Hiệp về Viện làm Tổ trưởng sản xuất vắc-xin .

Ngày 23/11/1978, Bộ Y tế thành lập Trung tâm nghiên cứu và sản xuất vắc-xin huyết thanh tại Nha Trang, Đà Lạt, KS. Lê Văn Hiệp cùng một số cộng sự từ Hà Nội vào nhận công tác tại đây.

KS. Lê Văn Hiệp về cơ sở 2 của Viện đóng tại TP. Đà Lạt, nơi có khí hậu hiền hòa, khung cảnh yên tĩnh và thanh bình. Song, môi trường làm việc không thuận lợi vì cán bộ trong cơ quan không yên tâm công tác. Thêm nữa, đời sống thời bao cấp khó khăn, một số người tìm cách xin thuyên chuyển đi nơi khác. Lãnh đạo thời đó không khai thác khả năng chuyên môn của Lê Văn Hiệp, ông không nản lòng, dành thời gian để trau dồi thêm về chuyên môn, tích cực học tiếng Anh. Hai năm sau, ông đã lập gia đình với cử nhân sinh học Phan Thị Tuyết là người Đà Lạt, tốt nghiệp Đại học Khoa học TP. Hồ Chí Minh. Ông bà động viên nhau yên tâm làm việc, cần cù nghiên cứu, gương mẫu hoàn thành công việc của mình. Sau này cả hai ông bà đều có bằng tiến sĩ.

Khi chuyển công tác từ Hà Nội qua Nha Trang rồi vào tới Đà Lạt, trong hành trang của mình, KS. Lê Văn Hiệp luôn mang theo một số ống nghiệm có chủng B. subtilis, một vi khuẩn có ích, dễ sinh sản nhanh trong đường tiêu hóa, lấn át được các vi khuẩn có hại khác khi ta bị tiêu chảy hay rối loạn tiêu hóa. Khi đó, các cơ quan có phong trào “3 lợi ích”, ông đã đề xuất cán bộ cơ quan tham gia sản xuất dưới dạng đông khô, rồi nhờ một công ty đứng tên, để sản phẩm ra tới thị trường. Công việc này vừa có phúc lợi cho công ty bạn, còn cán bộ công nhân viên của Viện có thêm thu nhập hằng tháng bằng tiền một tháng lương. KS. Hiệp được tín nhiệm, được bầu vào Ban đời sống, BCH công đoàn, rồi Bí thư chi bộ. Ông tiếp tục cùng cơ quan nghiên cứu sản xuất nhiều sản phẩm phục vụ đời sống được tiêu thụ rộng rãi khắp các địa phương. Năm 1985, ông bị chảy máu dạ dày nặng, phải cắt 2/3 dạ dày và được nhiều đồng nghiệp trong ngành cho máu cứu sống trong ca mổ cấp cứu ở Bệnh viện tỉnh Lâm Đồng. Sức khỏe hồi phục, KS. Lê Văn Hiệp đi thực tập khoa học tại Đan Mạch, vợ ông được đi Hunggari. Năm 1987, KS. Lê Văn Hiệp là nghiên cứu sinh tại Viện VSDTTW phải đi lại nhiều lần Hà Nội – Đà Lạt theo học các chứng chỉ và làm luận án tốt nghiệp. Sau 4 năm theo học, ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ tại Hà Nội (1991) và được đề bạt là Viện phó phụ trách cơ sở 2 Đà lạt từ năm 1992.

Tại Viện Pasteur Đà Lạt, dựa vào ưu thế thiên thời, địa lợi, ông đã tổ chức một tập thể cán bộ khoa học, đoàn kết, vượt mọi khó khăn, tự vươn lên để làm ra những sản phẩm hết sức hữu ích cho cộng đồng. Ông cùng cán bộ toàn Viện hoàn thành các đề tài cấp Nhà nước: Ứng dụng thành công và hoàn thiện công nghệ sản xuất vắc-xin bằng hệ thống lên men hiện đại, sản xuất được nhiều vắc-xin với số lượng tăng hằng năm, đáp ứng chương trình tiêm chủng mở rộng quốc gia (EPI). Viện còn sản xuất các huyết thanh chẩn đoán phục vụ hệ thống y học dự phòng, thay thế hoàn toàn hàng nhập ngoại và các sản phẩm phục vụ đời sống khác  được phép lưu hành trên cả nước, đời sống cán bộ công nhân viên hằng năm khá lên.   

Người Viện trưởng đầy nhiệt huyết

Năm 2001, Bộ Y tế bổ nhiệm PGS.TS. Lê Văn Hiệp giữ chức Viện trưởng Viện vắc-xin và sinh phẩm Nha Trang. Gia đình và một số cộng sự của ông từ Đà Lạt cùng chuyển về Nha Trang. Ông trở thành thủ trưởng của cơ quan có tới hơn 400 CBCNV, với nhiệm vụ lớn hơn, nặng  hơn cùng với gánh nặng phải chăm lo đời sống cho bấy nhiêu người. Tổng thu nhập của toàn Viện giảm trong lúc giá cả các vật liệu, điện nước, xăng dầu biến đổi theo tháng, song giá thành sản phẩm vắc-xin phải giữ nguyên giá cách đó 5, 7 năm.  

Tại Nha Trang, dây chuyền sản xuất vắc-xin DTP mới cùng nhà đóng ống vắc-xin thành phẩm có hệ thống cất nước UNICEF hiện đại và 2 dàn đông khô – đóng ống tự động công suất lớn đã tạo điều kiện cho Viện làm tốt hơn việc sản xuất vắc-xin DTP với số lượng  cung cấp 4,5 triệu liều/năm, có năm lên tới 6,5 triệu liều/năm, đủ vắc-xin an toàn tiêm chủng cho trẻ. Nhớ lời GS. Đặng Đức Trạch: Những người làm vắc-xin  là phải thận trọng tối đa và tuân thủ thường quy tuyệt đối. GS. Lê Văn Hiệp quyết tâm xây dựng Viện có hệ thống quản lý chất lượng theo GMP và ISO, luôn  tích cực cải tiến quy trình nuôi cấy để tăng năng suất hằng năm, cạnh tranh về chất lượng và giá cả  so với vắc-xin ngoại nhập.

Sản xuất thử nghiệm thành công vắc-xin cúm A/H5N1 và cúm A/H1N1  

Năm 2005, dịch cúm A/H5N1 thật sự trở thành mối quan tâm, lo ngại hàng đầu của cả thế giới. Vì thế, tìm ra vắc-xin phòng chống cúm A/H5N1 cho người là nhu cầu vô cùng cấp bách. Viện vắc-xin và sinh phẩm y tế Nha Trang thực hiện đề tài NCKH cấp nhà nước: Nghiên cứu quy trình sản xuất vắc-xin cúm A/ H5N1 bất hoạt dùng cho người theo một phương pháp nghiên cứu trên trứng gà có phôi, sử dụng chủng NIBRG-14 của Vương quốc Anh. GS.TS. Lê Văn Hiệp, Viện trưởng làm Chủ nhiệm đề tài nghiên cứu và các cộng sự là TS. Lê Văn Bé, Phó Viện trưởng; CN. Nguyễn Thị Minh Hiền, ThS. Nguyễn Thị Lan Phương đã phải miệt mài nghiên cứu, chiến đấu thầm lặng, tập trung công sức, trí tuệ làm việc ngày đêm hơn một năm trong điều kiện thiếu thốn cơ sở vật chất, kinh phí, trang thiết bị, vật tư hóa chất tại 1 labo sinh học an toàn cấp 2, đã sản xuất thử nghiệm thành công 5 lô vắc-xin thành phẩm cúm A/H5N1 hấp phụ (FLUVAC), gồm 5.000 liều. Đến đầu năm 2007, Viện sản xuất thêm 5.000 liều nữa để đáp ứng cho việc kiểm định tại các trung tâm quốc tế, nếu đạt yêu cầu sẽ đề xuất cho thử nghiệm trên người. Với  thành tích phấn đấu đạt được, Viện được thưởng Cờ thi đua của Thủ tướng Chính phủ năm 2007 và Huân chương Độc lập hạng ba năm  2008.

Từ thành công của nghiên cứu này, trình độ công nghệ sản xuất vắc-xin Việt Nam bắt kịp trình độ thế giới. WHO đã tài trợ 2,7 triệu USD trong giai đoạn I để IVAC “xây dựng một cơ sở thực nghiệm sản xuất vắc-xin cúm đạt GMP”. IVAC cũng xây dựng trại nuôi giống gà siêu trứng của Pháp tại Viện  để chủ động có trứng sạch cho sản xuất vắc-xin cúm.  

Tháng 6/2009, được Bộ Y tế phê chuẩn, TS. Lê Văn Hiệp thực hiện đề tài: Nghiên cứu sản xuất vắc-xin cúm A/H1N1 mới. Viện đã sản xuất được 3 loạt vắc-xin cúm A/H1N1 đạt chất lượng WHO.   

Năm 2009, GS. Hiệp đến tuổi nghỉ công tác quản lý, nhưng ông tiếp tục làm chuyên môn để hoàn thành xong đề tài về cúm và kháng huyết thanh cá nóc rồi nghỉ hưu.

GS. TS. Lê Văn Hiệp đánh giá kết quả kiểm định cùng đồng nghiệp.

Nhà khoa học, người thầy tận tụy

Trên cương vị Viện trưởng, GS.TS. Lê Văn Hiệp, với uy tín trong các cuộc hội nghị, hội thảo tại nhiều nước đã tạo dựng cho IVAC có quan hệ tốt nên đã nhận được viện trợ từ nhiều chính phủ và sự  ủng hộ của các viện bạn, nhiều cán bộ được tu nghiệp và thực tập khoa học, tiếp thu công nghệ cao ở các nước tiên tiến trên thế giới.

Ông thành lập Công ty vắc-xin và sinh phẩm số 2 để ứng dụng các công trình NCKH của Viện vào sản xuất nhiều sinh phẩm bán trên thị trường. Công ty là đơn vị làm ăn có hiệu quả, tạo việc làm cho nhiều lao động và góp phần tăng quỹ phúc lợi cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên. Viện là cơ quan có các hoạt động văn hóa, thể thao và quan hệ xã hội đứng vào hàng nhất nhì các đơn vị trung ương đóng ở Nha Trang.  

Ý thức được trách nhiệm cần phải trau dồi học hỏi để bổ sung kiến thức cho công việc của mình, mỗi khi có cơ hội và trong nhiều lần được cử đi thực tập khoa học, tham quan tại nhiều cơ sở nổi tiếng của các nước về chuyên ngành vắc-xin tại Đan Mạch, Hungary, Mỹ, Nhật, Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn Quốc…  GS. Hiệp rất tranh thủ tiếp thu các sách vở lý thuyết và thực hành công nghệ sản xuất vắc-xin trong labô cũng như trên nhà máy. Tuy bận nhiều công việc cơ quan, ông vẫn dành thời gian cho công tác giảng dạy, truyền thụ kiến thức, kinh nghiệm chuyên môn cho các cán bộ khoa học trẻ, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên đại học Đà Lạt, Nha Trang, Tây Nguyên và Viện VSDTTW. TS. Lê Văn Hiệp được công nhận chức danh Phó giáo sư năm 1996, chức danh Giáo sư năm 2009.

GS.TS. Lê Văn Hiệp là Chủ nhiệm 2 đề tài cấp Nhà nước, 5 đề tài cấp bộ, cấp tỉnh với 87 bài báo  khoa học được công bố trên các tạp chí trong và ngoài nước. Giáo sư đã hướng dẫn thành công luận án cho 2 tiến sĩ, 12 thạc sĩ và 22 sinh viên đại học, nhận 3 bằng Lao động sáng tạo của Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam và biên soạn 4 cuốn sách chuyên khảo.

GS.TS. Lê Văn Hiệp đã có hơn 30 năm cống hiến trong cuộc hành trình gian nan vất vả vì sự nghiệp nghiên cứu và sản xuất vắc-xin. Giáo sư có gương mặt phúc hậu, sống liêm khiết, giản dị, chân thành nhưng rất trực tính và chuẩn mực trong công việc hành chính lẫn nghiên cứu khoa học. Được trưởng thành, có nhiều thành công trong lĩnh vực sản xuất vắc-xin phục vụ cho y tế dự phòng, GS. Lê Văn Hiệp luôn nhớ và tri ân những người thầy, các anh chị đi trước đã mang tâm trí đặt nền móng cho thành tựu hôm nay.

 

Trần Giữu

Nguồn: suckhoedoisong.vn/20120906083950618p0c98/mot-su-nghiep-nghien-cuu-va-san-xuat-vacxin-phong-benh.htm