Gửi miền Nam thương yêu sức sống của mùa Xuân

Từ tình yêu chung…

“Mong một ngày không xa, chúng ta có thể cùng nhau xây dựng một tổ quốc Việt Nam thống nhất và hùng mạnh, có một bầu trời của chúng ta, có một ven bể của chúng ta, có một mảnh tình riêng ta với ta, mà không một đế quốc nào dám xâm phạm”[1]. Mong muốn này là lời kết trong bài phát biểu của GS Tôn Thất Tùng được phát trên Đài Tiếng nói Việt Nam ngày 3-2-1966 (tức ngày 14-1 âm lịch – dịp Tết Bính Ngọ). Và 10 năm sau, mong ước của riêng ông cũng như của bao người dân Việt Nam đã trở thành sự thật, Nam Bắc quy về một mối, mùa Xuân hòa bình ngập tràn trên các miền quê Việt Nam thân yêu.

            Vào thời kỳ năm 1966 cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam đang trong thời điểm ác liệt. Bằng chiến lược Chiến tranh Cục bộ, người Mỹ tăng quân đội viễn chinh Mỹ, tăng cường vũ khí và trang thiết bị nhằm đạt được các mục tiêu chính trị và quân sự. Đồng thời, Mỹ và chính quyền Việt Nam Cộng hòa đẩy mạnh việc đôn quân bắt lính, thực hiện những chính sách lừa bịp và mị dân nhằm lôi kéo một bộ phận lớn thanh niên gia nhập quân đội Ngụy.

            Nhằm làm cho nhân dân miền Nam, các tầng lớp thanh niên hiểu được bản chất và âm mưu của Mỹ- ngụy, tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến cứu nước của dân tộc ta, trong giai đoạn này, Đài tiếng nói Việt Nam trên đất Bắc thường xuyên có các chương trình phát sóng dành cho đồng bào miền Nam thân yêu. Nội dung các chương trình là tiếng nói của nhiều tầng lớp nhân dân: trí thức, nhà văn, nhạc sĩ, các chính khách, công nhân… muốn gửi những tâm tình, sẻ chia, trách nhiệm với một nửa ruột thị của mình – đồng bào niềm Nam. Vào tháng 2-1966, GS Tôn Thất Tùng (khi đó là Giám đốc Bệnh viện Việt – Đức, người vừa thực hiện các ca phẫu thuật gan theo phương pháp mới của mình, được giới Y học thế giới biết đến và ca ngợi) được Đài Tiếng nói Việt Nam mời lên sóng trò chuyện với các trí thức, thanh niên miền Nam, những người đang sống dưới ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai. Bài nói chuyện được phát vào ngày 3-2-1966, nhân Kỷ niệm 36 năm ngày thành lập Đảng Lao động Việt Nam.

            Mở đầu, GS Tôn Thất Tùng bộc bạch: “Tôi là một người khoa học, ít khả năng về chính trị: nhưng hôm nay tôi thấy có bổn phận phải nói với các bạn, trước hết là vì mối tình Bắc Nam, sau là để chúng ta có thể hiểu biết nhau hơn, gần gũi nhau hơn, để phá tan âm mưu của đế quốc Mỹ muốn duy trì một cuộc chiến tranh tàn khốc nồi da nấu thịt để trường kỳ xâm chiếm Tổ quốc thân yêu của chúng ta”.

            Vào những ngày đầu tháng 2-1966, ở miền Bắc đang vui mừng kỷ niệm ngày thành lập Đảng Lao động Việt Nam, và có nhiều hoạt động hướng đến, tỏ lòng biết ơn sâu sắc những chiến sĩ đang chiến đấu, sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc. Nhưng ở miền Nam, những con người ưu tú ấy lại bị đế quốc Mỹ và tay sai cố tình biếm họa, bôi nhọ như những người không quê hương, vô tổ quốc, chiến đấu vì một lý tưởng xa lạ. Bác bỏ luận điệu này, GS Tôn Thất Tùng chia sẻ với những người dân miền Nam rằng: “Lúc kháng chiến chống đế quốc Pháp bùng nổ, tôi xin thú thật rằng chừng nào tôi cũng đã bị những lời tuyên truyền ấy thâm nhập vào tư tưởng. Nhưng qua 8 năm đánh giặc và 10 năm xây dựng hòa bình, hiểu biết của tôi đối với người đảng viên Đảng Lao động đã hoàn toàn thay đổi. Tôi đã có cơ hội sống với tất cả tầng lớp nhân dân, tham gia vào Chính phủ kháng chiến và đã có dịp mổ xẻ cho bộ đội và dân quân trên các chiến trường”. Ông gửi tới các thanh niên, người dân và trí thức đang ở miền Nam những suy nghĩ của mình về Đảng, vai trò của Đảng: “Qua những sự việc mà tôi đã thấy, tôi xin tuyên bố một cách trung thực rằng những đảng viên Đảng Lao động là những người yêu nước nhất, những người không bao giờ quỳ gối trước quân thù, và hiện nay đương chống Mỹ cứu nước không phải chỉ với truyền thống của Đảng mà thôi, mà còn với một nghìn năm lịch sử của một dân tộc đã tiêu diệt bao nhiêu ngoại xâm”[2].        

            Giáo sư Tôn Thất Tùng bác bỏ những tuyên truyền xuyên tạc của đế quốc Mỹ khi họ cho rằng dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, người trí thức mất cả vị trí và khả năng phục vụ của mình. Ông dẫn ra minh chứng: “Tôi thuộc ngành Y, chuyên về mổ xẻ. Ngành mổ xẻ miền Bắc hiện nay đã đạt đến tất cả các cao điểm của y học thế giới: các bạn có thể theo dõi việc này qua các báo chí y học trong nước cũng như nước ngoài. Nhưng việc quan trọng nhất là ngành mổ xẻ miền Bắc đã đi sâu vào đời sống của nhân dân và các bác sĩ của trường Đại học Hà Nội đã trở thành những thầy thuốc của nhân dân…Trong khi tất cả miền Nam chỉ có trên 700 bác sĩ mà một nửa thì thuộc về quân y và nửa còn lại chỉ biết tập trung ở các đô thị lớn, miền Bắc trái lại có hàng nghìn bác sĩ và hàng vạn y sĩ rải rác trong nhân dân, không sợ sống với nông dân, không sợ chết cùng nông dân, để làm tròn nhiệm vụ của mình dưới sự bắn phá của phi cơ Mỹ. Chúng tôi ở miền Bắc rất hãnh diện là không cần đến một đội mổ xẻ nào của nước ngoài. Mổ xẻ cho nhân dân Việt Nam anh dũng là một vinh dự cho chúng tôi…”.

            Trong bối cảnh bị đế quốc Mỹ đầu độc bằng văn hóa lai căng, ru ngủ bằng rượu mạnh và những lời lẽ mị dân, thì thanh niên là những người dễ bị lôi kéo sa ngã nhất. Và GS Tôn Thất Tùng khuyên họ: “Các bạn suy nghĩ cho kỹ, nhìn chung quanh các bạn xem ai là những người trung thành với nhân dân, ai không sợ sống như nhân dân và không sợ chết cùng nhân dân, ai hay tự tư tự lợi, sống nhờ tiền bạc của ngoại xâm, xa nhân dân…”.

            Đến tình yêu đặc biệt

Tình yêu này dành riêng cho những chiến sĩ, những thanh niên ngày đêm chiến đấu ngoài mặt trận với quân thù. Đó hẳn là sự đồng cảm của con người đã từng kinh qua gian khổ, đã từng không ngại ngần trước cái chết để chiến đấu cho hòa bình và thống nhất.

Đầu năm 1971, Mỹ và chính quyền Sài Gòn lên kế hoạch tấn công vào lãnh thổ Lào Đường 9, kéo dài từ biên giới Việt – Lào tới thị trấn Xê-pôn (Lào) nhằm tiêu diệt lực lượng quân đội ta đóng trong vùng; phá hủy tất cả các kho xăng dầu và hậu cần; kiểm soát mọi sự vận chuyển dọc theo đường mòn Hồ Chí Minh từ Bắc vào Nam hòng chia cắt sự chi viện của miền Bắc đối với miền Nam. Ngày 29 tháng 1, Tổng thống Mỹ Nixơn phê chuẩn chiến dịch, một phần chiến dịch do Mỹ thực hiện được đặt tên Dewey Canyon II, phần của Quân lực Việt Nam Cộng hòa được đặt tên Lam Son 719 (con số 719 được ghép từ năm 1971 và Đường 9 – trục chính của cuộc tấn công)[3].

Là một bác sĩ – chiến sĩ từng tham gia Chiến dịch Điện Biên Phủ, GS Tôn Thất Tùng rất quan tâm theo dõi các tin tức của mặt trận Đường 9 đưa về và có những suy nghĩ, đồng cảm với những người ngoài trận tuyến. Vào ngày 20-3-1971, khi chiến dịch Đường 9 ở vào giai đoạn cuối, phần thắng đã nghiêng về quân dân ta, GS Tùng đã viết một bức tâm thư gửi các chiến sĩ mặt trận Đường 9, nội dung bức thư sau đó được Đài Tiếng nói Việt Nam thu âm và phát gửi vào mặt trận.

GS Tôn Thất Tùng những năm Kháng chiến chống Pháp, Việt Bắc (1947-1954)

            Đầu thư, GS Tôn Thất Tùng bày tỏ những cảm xúc của mình về cuộc chiến ác liệt đang diễn ra: “Nếu trước kia số phận của cả dân tộc ta đã được định đoạt ở một đồng bằng xa xôi và hẻo lánh, ngày nay, tôi có cảm tưởng là tương lai của nước ta, của các nước Đông Dương có thể đang được thử thách trên con đường xuyên rừng núi này. Nói là tôi không lo sợ lúc đầu thì thật là không đúng, vì tôi biết rõ khả năng và tiềm lực của đế quốc chủ mưu cuộc hành quân táo bạo vừa qua”[4].

            Là người từng đến Đường số 9 khi còn trẻ nên GS Tôn Thất Tùng thấu hiểu cảm giác và không khỏi xúc động khi nghĩ đến các chiến sĩ đang ngày đêm chiến đấu với quân thù trên mặt trận này. Trong thư ông viết: “Con đường số 9 lúc tuổi trẻ tôi đã đi qua rồi, cho nên lòng tôi không khỏi bùi ngùi khi nghĩ đến các chiến sĩ của chúng ta đang phải nằm sương đội gió để diệt quân thù, và khi nghĩ đến các thương binh phải luồn qua bao nhiêu gian khổ để đi đến chỗ chữa chạy. Nhưng tôi biết rằng, bên cạnh các bạn đã có những y sĩ dũng cảm của chúng ta và trong số đó, có lẽ có một số học trò thân mến của tôi, cho nên chừng nào lòng tôi cũng hơi đỡ bâng khuâng khi nghĩ đến chiến trường”[5].

            Nhưng gian khổ không làm người bền chí sợ hãi, những thắng lợi ngoài mặt trận khiến GS Tôn Thất Tùng tự tin vào khả năng đánh thắng quân thù của quân và dân ta, cho rằng trước kia chúng ta đã đánh bại được một đội quân tinh nhuệ thì chắc chắn một lần nữa sẽ đánh bại đội quân được Mỹ trang bị đầy đủ, hiện đại. Ông bày tỏ niềm vui: “Những tín hiệu vừa nhận được làm cho tôi biết bao vui mừng và sung sướng khi thấy rằng con em của chúng ta vẫn tiếp tục truyền thống nghìn năm của dân tộc từ Nguyễn Trãi đến Quang Trung và đang đánh tơi bời đội quân viễn chinh, được vũ trang bằng hung tàn và phi nghĩa”.

Với niềm tin tất thắng, GS Tôn Thất Tùng động viên và tràn đầy hy vọng ở các chiến sĩ nơi bom rơi, đạn nổ: “Tương lai của đất nước chúng ta, của cả ba đất nước anh em, đang được thử thách trên con Đường số 9. Tôi tin chắc rằng các bạn sẽ làm tròn nhiệm vụ của mình và xin các bạn nhớ rằng dân tộc ta, các dân tộc anh em và dân tộc yêu chuộng hòa bình trên thế giới đang theo dõi các bạn. Đây là một trang lịch sử vẻ vang mà các bạn đang viết bằng đau khổ, dũng cảm và trí tuệ của mình, của một dân tộc đang vươn lên để giành quyền sống vui tươi trên mảnh đất sơn hà cẩm tú của chúng ta, dưới một trời xanh bát ngát mà Bác Hồ yêu mến của chúng ta đã làm sáng tỏ rực rỡ”.

Trong một bài tâm huyết khác vào dịp Tết Nguyên đán năm 1973, khi quân và dân ta đang trong khí thế chiến thắng trận Điện Biên Phủ trên không cuối năm 1972, GS Tôn Thất Tùng cũng bày tỏ tình yêu thương vô hạn của mình với đất nước nói chung và nhân dân miền Nam nói riêng. Trong niềm vui trước thềm Năm mới, GS Tôn Thất Tùng cũng không quên nhắc lại những nỗi đau mà giặc Mỹ đã gây ra cho nhân dân Việt Nam trên cả hai miền đất nước: “Bom đạn mà quân thù đã dội trên đầu chúng ta, trên đầu con cháu chúng ta, trên đầu các bạn bè và thân thích chúng ta đã vượt các kỷ lục của lịch sử chiến tranh, nhưng đã không sao cắt được mối tình ruột thịt Bắc Nam”[6]. Và ông khẳng định: “Tình đoàn kết chiến đấu của chúng ta đã bảo vệ và sẽ bảo vệ tương lai sáng ngời của dân tộc ta, một dân tộc không bao giờ quỳ gối trước hung ác hay bạo lực, một dân tộc thống nhất từ núi rừng Việt Bắc cho đến mũi Cà Mau”[7].

Trong không khí tưng bừng của ngày Xuân, GS Tôn Thất Tùng đã dành những lời chúc tốt đẹp tới quân và dân ta ở miền Nam: “Năm Quý Sửu sắp đến, còn hứa hẹn bao nhiêu thử thách nhưng tất cả chúng ta – những người chiến sỹ của dân tộc chan chứa tình yêu đất nước sẽ đoàn kết triệu người như một để tiêu diệt mọi âm mưu chia rẽ quân thù và xây dựng một nước Việt Nam hòa bình thống nhất, độc lập và hùng cường. Hướng về những ngày mai tươi đẹp, xin chúc các anh chị em một năm mới thắng lợi”[8].

Những lời từ tâm can mà GS Tôn Thất Tùng gửi cho miền Nam thân yêu ở vào ba thời điểm khác nhau (1966, 1971 và 1973), nhưng có một điểm chung là đều được ông bày tỏ vào mùa Xuân, mùa của sự sinh sôi nảy nở, đâm chồi nảy lộc, mùa của đoàn tụ. Có thể là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, nhưng chắc chắn là mong ước sâu xa của nhà khoa học tài hoa này đối với đất nước mình, dân tộc mình.

Hơn 40 năm đã trôi qua, nay những lời của GS Tôn Thất Tùng đã trở thành hiện thực, Nam Bắc đã xum họp một nhà, mùa Xuân hòa bình, phát triển đã trải dài trên khắp các miền quê, chúng ta không khỏi bồi hồi nhớ về Người trí thức  – nhà khoa học tài năng, yêu nước với cả tấm lòng tri ân và thành kính sâu sắc!

Nguyễn Thanh Hóa

Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam

[1] Trích bản thảo bài phát biểu của GS Tôn Thất Tùng được phát triên Đài Tiếng nói Việt Nam, ngày 3-2-1966.

[2] Trích bản thảo bài phát biểu của GS Tôn Thất Tùng được phát triên Đài Tiếng nói Việt Nam, ngày 3-2-1966.

[3] Chiến dịch Lam Sơn 719 diễn ra từ ngày 30-1-1971 đến ngày 6-4-1971.

[4] Trích thư gửi các Chiến sĩ đường số 9, 20-3-1971.

[5] Như trên.

[6] Trích bản viết tay GS Tôn Thất Tùng soạn để phát biểu trên Đài tiếng nói Việt Nam, ngày 19-1-1973.

[7] Như trên.

[8] Như trên.