Giáo sư Nguyễn Thúc Tùng – Cây đại thụ của ngành Quân y Quân đội nhân dân Việt Nam

Giáo sư Nguyễn Thúc Tùng xuất thân từ một dòng họ danh tiếng tại làng Xuân Liễu, xã Nam Anh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Ông là hậu duệ đời thứ ba của cử nhân Nguyễn Thúc Kiều (1850-1885), làm quan đến chức Hành tẩu Bộ Công, hàm Biên tu. Cụ Nguyễn Thúc Kiều còn là thầy dạy học của nhà cách mạng Phan Bội Châu trước khi cụ Phan khởi xướng phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Thân phụ của ông là phó bảng Nguyễn Thúc Dinh (1877-1954), cũng làm quan đến chức Thượng thư Bộ Lễ dưới triều nhà Nguyễn.

Năm 1941, ông học năm thứ 6 Trường Đại học Y Hà Nội, bắt đầu làm nội trú các bệnh viện. Tại Bệnh viện Phủ Doãn, ông đã tham gia cứu chữa những người dân bị thương do sự đàn áp khủng bố của phát xít Nhật, binh lính Pháp bị thương trong cuộc Nhật đảo chính Pháp (9/3/1945). Cũng tại đây, ông đã chứng kiến giáo sư Pierre Huard – bậc thầy quân y của quân đội Pháp – chỉ đạo tổ chức thu dung, điều trị các trường hợp bị thương hàng loạt. Từ thực tế tại bệnh viện ngoại khoa duy nhất ở Hà Nội thời đó, ông đã ghi nhận những bài học và kinh nghiệm đầu tiên về tổ chức cứu chữa người bị thương và xử trí vết thương chiến tranh. Sau này trong những ngày đầu ở chiến trường Khu 5, ông thực hiện thành công việc cứu chữa thương binh chính là nhờ những kinh nghiệm ban đầu đó.

Sau khi Quân y Cục được thành lập (16/4/1946), Chính phủ ra sắc lệnh trưng tập các bác sĩ, dược sĩ vào phục vụ quân đội có thời hạn. Bác sĩ Nguyễn Thúc Tùng không những thực hiện lệnh trưng tập mà còn tình nguyện phục vụ lâu dài trong ngành Quân y.

Tháng 6/1946, ông và bác sĩ Võ Văn Vinh được bác sĩ Vũ Văn Cẩn, Cục trưởng Quân y Cục, giao nhiệm vụ vào công tác ở mặt trận Nam Trung Bộ. Mặc dù được đào tạo chính quy tại nhà trường và các bệnh viện trong thành phố Hà Nội, nhưng khi vào đến chiến trường, bước xuống ga tàu Tam Quan (Bình Định) ông đã thích ứng ngay với đời sống và điều kiện mổ xẻ ở dã ngoại. Chứng kiến thương binh nằm ngổn ngang trong một ngôi trường, phần lớn các vết thương đã bị nhiễm trùng, ông nhanh chóng tiến hành phân loại thương binh, sau đó lần lượt mổ suốt đêm cho đến sáng. Ba tháng sau, quân ta tập trung đánh chiếm hệ thống đồn bốt của địch ở An Khê. Lúc đó, ông là Trưởng Bệnh viện Đại đoàn 23 đã tổ chức mạng lưới vận chuyển, cấp cứu, điều trị cho gần 200 thương binh, sau này Cục Quân y công nhận đó là bậc thang điều trị hoàn hảo đầu tiên của ngành.

Tại chiến trường Liên khu 5, ông lần lượt đảm nhiệm các cương vị: Quân y trưởng Trung đoàn 94 kiêm Trưởng Bệnh viện Đại đoàn 23 (1946); Quân y trưởng tỉnh Bình Định (1947); quyền Quân y Vụ trưởng, rồi quyền Trưởng phòng Quân y Liên khu 5 (1948); Quân y trưởng liên Trung đoàn 80-83, phụ trách quân y các tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa; Viện trưởng Viện quân y 1 ở Quảng Ngãi (1950), Quân y Vụ phó kiêm Trưởng ban Quân dược Liên khu 5 (1951), Trưởng phòng Quân y Liên khu 5 (1952).

Trong điều kiện, hoàn cảnh chiến trường Liên khu 5 bị địch bao vây, đồng chí Phạm Văn Đồng (giai đoạn đó được Trung ương Đảng giao phụ trách miền Trung) đã phát động phong trào tự túc, tự lực cánh sinh trong nhân dân, quân đội và mọi ngành. Với chức trách Quân y trưởng tỉnh Bình Định, bác sĩ Nguyễn Thúc Tùng đã tổ chức các xưởng sản xuất bông băng, dầu khuynh diệp, thuốc tiêm và thuốc viên điều trị bệnh sốt rét và các chứng bệnh khác của bộ đội. Năm 1949, theo chỉ đạo của trên, các trung đoàn chủ lực tách ra một số đại đội có nhiệm vụ luồn sâu vào các buôn làng xa xôi, hẻo lánh (cách đồng bằng và các bệnh viện 5-6 ngày đi bộ xuyên rừng) để làm nhiệm vụ gây dựng lực lượng vũ trang, tuyên truyền, vận động đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên hướng về kháng chiến. Ông đã chọn một số y tá có trình độ văn hóa tổ chức đào tạo sơ phẫu (phẫu thuật cơ bản), sau đó đi theo các đội công tác ở địch hậu để xử trí cấp cứu kịp thời khi có người bị thương. Hai năm sau, ông lại mở một lớp đào tạo y tá phẫu thuật có nhiều học viên hơn, được thực hành tốt hơn để phục vụ các đơn vị chủ lực đang từng bước được hình thành. Các y tá phẫu thuật được đưa về các trung đoàn, đại đoàn, hình thành các đội phẫu thuật, đội điều trị cơ động phục vụ chiến đấu. Những năm tiếp theo, khi các chiến dịch mở ra liên tiếp, trên cương vị Trưởng phòng Quân y Liên khu 5, ông đã nhờ một viên sĩ quan Nhật trốn theo ta, có khả năng rèn thép tốt, rèn hàng loạt dụng cụ phẫu thuật theo hướng dẫn của ông, trong đó nhiều nhất là kìm Kocher để trang bị cho các đội phẫu thuật và quân y các đơn vị chủ lực của liên khu.

Trong năm 1952, Phòng Quân y Liên khu 5 trực tiếp bảo đảm quân y phục vụ nhiều chiến dịch lớn. Ông tổ chức đội điều trị để phù hợp với cách đánh của các đơn vị chủ lực khi tập trung, khi phân tán. Đội điều trị được tổ chức thành nhiều phân đội, mỗi phân đội do một y tá phẫu thuật phụ trách, có thể phân tán, có thể ghép lại thành những trạm “hoàn phẫu” hoặc trạm “sơ phẫu” để xử trí thương binh rồi chuyển về bệnh viện tuyến sau xử trí cơ bản tùy theo từng chiến dịch.

Chính nhờ những đóng góp của ông mà mạng lưới quân y Liên khu 5 từng bước được xây dựng và trưởng thành, đã đáp ứng được nhiệm vụ cứu chữa, điều trị cho thương binh, bệnh binh trên các mặt trận Tây Nguyên, Khánh Hòa, An Khê, bắc Quảng Nam, Quảng Ngãi. Trong chiến dịch Đông Xuân 1953-1954, ông đã chỉ đạo quân y các đơn vị, các cơ sở điều trị toàn liên khu phục vụ có hiệu quả cho các đại đoàn, trung đoàn tấn công giải phóng Tây Nguyên và bẻ gãy cuộc hành quân Atlante của tướng Navarre, với lực lượng hùng mạnh 22 tiểu đoàn lính lê dương cùng các loại vũ khí tối tân, càn quét các tỉnh duyên hải Trung Bộ. Trong chiến dịch giải phóng Tây Nguyên và chống cuộc càn quét Atlante, lực lượng quân y Liên khu 5 đã cấp cứu, điều trị cho 1997 thương binh, 1804 bệnh binh và dân công hỏa tuyến. Một số đội phẫu thuật cơ động đã phải di chuyển nhiều lần, trên quãng đường hàng trăm cây số để xử trí số lượng thương binh trên toàn tuyến.

Khi Hiệp định Geneva được ký kết, những thương binh nặng ở các viện quân y được tập trung về Viện quân y 1 ở Quảng Ngãi. Ông trực tiếp xử trí kỳ hai và phân loại những thương binh cần chuyển bằng máy bay ra Viện quân y 108 ở Hà Nội. Tháng 5/1955, ông rời mảnh đất Liên khu 5 trên chuyến tàu thủy cuối cùng chở thương binh, bệnh binh và bộ đội tập kết ra Bắc, cập cảng Sầm Sơn (tỉnh Thanh Hóa).

Cuối năm 1955, Cục Quân y cử ông đi làm nghiên cứu sinh ở Liên Xô, nhưng do chưa lập gia đình, ông xin ở lại để đi học lớp sau. Ông được điều động về công tác tại Viện quân y 108. Thời điểm đó, Viện quân y 108 do bác sĩ Nguyễn Thế Khánh làm Viện trưởng, Viện phó là bác sĩ Võ Văn Vinh. Bác sĩ Nguyễn Ngọc Doãn được cử giữ chức Tổng chủ nhiệm khối nội, ông giữ chức Tổng chủ nhiệm khối ngoại. Năm 1957, ông xây dựng gia đình với bà Tạ Xuân Tuyết, người Hà Nội.

Năm 1960, ông được cử sang Liên Xô làm nghiên cứu sinh cùng các bác sĩ Võ Văn Vinh và Nguyễn Thế Khánh. Sau 4 năm miệt mài nghiên cứu, học tập, ông đã bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ y học. Về nước, ông được Bộ Quốc phòng bổ nhiệm chức vụ Viện phó Viện quân y 108.

Năm 1965, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước bước sang giai đoạn mới. Đế quốc Mỹ đưa các đơn vị viễn chinh ồ ạt vào miền Nam, thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt” hòng tiêu diệt lực lượng chủ lực của ta bằng 5 mũi tiến công, trong đó có 3 mũi ở Khu 5. Thời gian đó, Bộ Quốc phòng chỉ đạo các mặt trận phía Nam tập trung nghiên cứu cách đánh tiêu diệt sinh lực địch; Cục Quân y chỉ đạo quân y các đơn vị chủ lực nghiên cứu cách xử trí, bảo vệ thương binh khi quân Mỹ dùng chiến thuật bao vây, chặn đường rút của ta bằng trực thăng, pháo bầy, đổ quân chớp nhoáng. Ông được điều động vào chiến trường cũ. Trong 3 năm phục vụ ở chiến trường Khu 5, ông đã có những đóng góp đáng kể về công tác tổ chức bảo đảm quân y, đặc biệt là công tác cứu chữa thương binh, tiếp tế quân y cho các đơn vị chiến đấu. Năm 1966, từ những vấn đề nóng bỏng trong việc bảo vệ và tổ chức cứu chữa thương binh sau những trận đánh của Sư đoàn 2 ở Núi Thành (Quảng Nam) và từ một số đề xuất của ông qua thực tiễn phục ở chiến trường, Phòng Quân y Khu 5 đã tổ chức hội nghị quân y Khu 5. Hội nghị đề ra chủ trương củng cố tổ chức quân y, tăng cường quan hệ chặt chẽ với các bệnh viện dân y tuyến huyện và y tế tuyến xã, đồng thời tranh thủ sự giúp đỡ của nhân dân để che chở, cấp cứu thương binh, bổ sung chương trình huấn luyện để y sĩ có thể mổ ở tuyến tiểu đoàn, thực hiện phương châm “quân y bám thắt lưng bộ đội mà phục vụ”. Cuối năm 1968, do bị sốt rét nặng, sức khỏe giảm sút, ông được Cục Quân y yêu cầu trở về Viện quân y 108 công tác.

Từ năm 1968-1975, ông vừa là Viện phó vừa là Trưởng ban Y vụ của viện. Trên các cương vị này, ông đã dồn hết tâm lực để chỉ đạo việc chấn chỉnh các chế độ chuyên môn (chế độ làm việc theo kế hoạch tuần, tháng, chế độ làm bệnh án vào viện, ra viện, chế độ hội chẩn, chế độ thông qua mổ, chế độ khám bệnh, chế độ vô trùng, chế độ nuôi dưỡng bệnh nhân theo tính chất bệnh lý…) đã bị lơ là sau hai lần Viện quân y 108 phải sơ tán trong hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ ở miền Bắc. Vốn là người rất nghiêm khắc trong công việc, ông yêu cầu các chủ nhiệm khoa và cán bộ, nhân viên toàn viện phải tập trung vào việc chấp hành nghiêm các chế độ công tác, nâng cao kỹ thuật điều trị và nghiên cứu áp dụng kỹ thuật mới. Đối với thương binh, bệnh binh nặng ở các chiến trường phía Nam chuyển ra, ông đòi hỏi mọi cán bộ, nhân viên phải tận tình nuôi dưỡng, phục vụ với ý thức trách nhiệm cao nhất, điều trị bằng những phương pháp có hiệu quả nhất.

Trong cuộc tổng tấn công mùa Xuân năm 1975, ông được Cục Quân y giao nhiệm vụ giúp quân y Khu 5 tiếp quản các cơ sở điều trị của quân đội Sài Gòn và giúp các cơ sở này tiếp tục duy trì các hoạt động chuyên môn để phục vụ các đơn vị chủ lực chiến đấu, giải phóng các tỉnh Trung Bộ và tiến quân về Sài Gòn. Ông đã chỉ đạo việc tiếp quản Tổng Y viện Duy Tân ở Đà Nẵng (sau đổi phiên hiệu là Viện quân y 17), tiếp quản Bệnh viện chỉnh hình Gia Na Đại ở Quy Nhơn (Viện quân y 13) và Bệnh viện Nguyễn Huệ tại Nha Trang (Bệnh viện 87 Hải quân). Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, ngày 12/5/1975 ta tiếp quản Tổng Y viện Cộng hòa của quân ngụy, sau đặt tên mới là Viện quân y 175. Giai đoạn đầu sau giải phóng, Cục Quân y đã cử nhiều cán bộ quân y uy tín đến làm việc tại Viện quân y 175. Giáo sư Phạm Gia Triệu và giáo sư Nguyễn Thúc Tùng là những người có nhiều công lao trong việc xây dựng bước đi ban đầu của Viện quân y 175. Uy tín và ảnh hưởng khoa học của cá nhân hai giáo sư chẳng những được cán bộ quân y của ta kính trọng, yêu mến mà ngay cả các sĩ quan quân y ngụy cũng đều biết danh tiếng và nể trọng. Viên chuẩn tướng Cục trưởng Cục Quân y ngụy Phạm Hà Thanh khi nghe giới thiệu về giáo sư Phạm Gia Triệu và giáo sư Nguyễn Thúc Tùng, đã nói: “Đó là lớp thầy của thầy chúng tôi!”.

Mùa hè năm 1978, khi cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam diễn ra ác liệt, thương binh từ các tỉnh biên giới, từ các viện quân y tuyến trước dồn dập chuyển về Viện quân y 175, trung bình mỗi ngày viện tiếp nhận 50 thương binh với tính chất vết thương rất đa dạng và phức tạp. Ông được trên giao làm Viện trưởng Viện quân y 175 để giải quyết tình hình thương binh rất căng thẳng, đồng thời chuẩn bị cho việc giúp bạn giải phóng Campuchia. Trong lịch sử quân y, lần đầu tiên ở Viện quân y 175 đã xử trí hàng loạt thương binh phải cắt cụt nhiều chi, xử trí vết thương tim, truyền lượng máu rất lớn… Một số khoa nội đã phải giành giường cho thương binh đã ổn định được giữ lại điều trị.

Năm 1980, khi ở tuổi 64, ông không làm công tác quản lý mà làm ủy viên Hội đồng Y học Quân sự Bộ Quốc phòng. Trong 8 năm, từ 1980-1988, ông cùng các ủy viên của Hội đồng đã tư vấn cho thủ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng cục Hậu cần và Cục Quân y những vấn đề về: kết hợp y học hiện đại với y học cổ truyền trong quân đội, chiến lược phát triển khoa học kỹ thuật y học quân sự giai đoạn 1981-1985, ba chương trình khoa học kỹ thuật (66.03.01, 66.03.02, 66.03.03) và đề án xây dựng tổ chức ngành Quân y. Ngoài ra, ông đã chủ trì Hội nghị Tổng kết công tác quân y chiến trường B1 ở Đà Nẵng và là Phó chủ nhiệm Chương trình 66.03.01 “Tổng kết khoa học kỹ thuật quân y” do Bộ Quốc phòng quản lý. Ngoài các nhiệm vụ trên, ông thường xuyên được mời tham gia đoàn Cục Quân y đi kiểm tra các bệnh viện trong toàn quân, trực tiếp giảng dạy các lớp tập huấn về công tác quản lý bệnh viện và công tác y vụ cho viện trưởng các bệnh viện quân đội. Trong giai đoạn này, ông còn tham gia viết lịch sử quân y Liên khu 5, Viện quân y 108 và Viện quân y 175, viết nhiều bài báo khoa học đăng trên Tạp chí Y học Quân sự của ngành. Bằng uy tín và ảnh hưởng cá nhân, ông và các giáo sư Võ Văn Vinh, Nguyễn Ngọc Doãn, Phạm Gia Triệu đã thực sự đem đến cho các cơ sở điều trị, các cán bộ quân y thế hệ kế cận những kiến thức và kinh nghiệm vô giá về y học quân sự. Đầu năm 1990, ông được nghỉ hưu khi đã bước sang tuổi 74. Nghỉ hưu nhưng giáo sư Nguyễn Thúc Tùng vẫn giữ nguyên thói quen nghiên cứu và đọc sách, thường xuyên cập nhật thông tin về quân y thế giới.

Xuất thân từ dòng họ danh gia vọng tộc, lại có vị thế trong ngành Quân y, nhưng giáo sư Nguyễn Thúc Tùng không hề nghĩ đến danh và lợi. Căn hộ nơi gia đình giáo sư đang ở do Bộ Quốc phòng cấp, đã hơn 20 năm qua vẫn như ngày đầu giáo sư về ở. Tài sản đáng giá nhất trong căn hộ ấy là sách và những tài liệu chuyên ngành mà giáo sư đã lưu giữ trong nhiều năm và vẫn tiếp tục được bổ sung thêm. Trong cuộc sống thường nhật, giáo sư có nếp sống thanh bạch, giản dị, tính cách dí dỏm pha chút hài hước và rất thương yêu vợ. Giáo sư còn dành một góc tình yêu của mình cho văn thơ. Những bài thơ do giáo sư viết thường được các đồng nghiệp đọc cho nhau nghe khi gặp mặt. Ngày 26/5/2000, Trung tâm văn hóa Pháp tại Hà Nội tổ chức hội thi thơ, giáo sư Nguyễn Thúc Tùng là người đoạt giải đặc biệt. Ông còn dịch hàng trăm bài thơ từ tiếng Việt sang tiếng Pháp.

Từ nhiều năm qua, không hiểu dựa theo tiêu chí nào mà những đồng nghiệp và bạn bè cùng trang lứa của giáo sư Nguyễn Thúc Tùng đã ví: ngành Y tế nước ta có “hai cây tùng”, “cây tùng lớn” là giáo sư Tôn Thất Tùng, “cây tùng nhỏ” là giáo sư Nguyễn Thúc Tùng. Là “cây tùng nhỏ”, nhưng hầu hết cán bộ quân y các thế hệ sau ông đều chung nhận định: giáo sư, thầy thuốc nhân dân Nguyễn Thúc Tùng không hề nhỏ. Đó chính là quãng đời gần 70 năm cống hiến cho sự phát triển và trưởng thành của ngành Quân y Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng từ khi thành lập cho đến ngày nay. Đó chính là những năm tháng gian khổ, khó khăn thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần ở chiến trường Liên khu 5 trong kháng chiến chống Pháp và chiến trường B1 trong chiến tranh chống Mỹ. Dù trong điều kiện khó khăn, gian khổ và ác liệt đến đâu, giáo sư đều vượt lên, giữ trọn vẹn niềm tin vào Đảng, vào Cách mạng, vào sự trưởng thành của Quân đội, của ngành Quân y để phấn đấu, để phục vụ, giữ trọn danh dự và phẩm chất người cán bộ quân y cách mạng được Đảng, Bác Hồ và Quân đội rèn luyện. Giáo sư Nguyễn Thúc Tùng thực sự là tấm gương tiêu biểu, ngời sáng về nghị lực, trí tuệ và quan điểm phục vụ cho các thế hệ cán bộ, chiến sĩ ngành Quân y hôm nay và mai sau học tập.

 

– TS. Chu Tiến Cường

(Trung tướng, nguyên Cục trưởng Cục Quân y)

– BS. Nguyễn Ngọc Bích

(Đại tá, nguyên Thư ký Tòa soạn Tạp chí Y học Quân sự)

Nguồn: www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/352/357/357/238391/Default.aspx