Được đi làm nghiên cứu sinh tại Hungari, sau một năm học tiếng, Phạm Đình Lựu đã thi đỗ nhưng vốn ngoại ngữ chỉ đủ cho việc giao tiếp. Chính vì vậy, ông xin được viết luận án bằng tiếng Anh. Ông trình bày với thầy giáo hướng dẫn là GS.VS Bálint Péter (thuộc Viện Hàn lâm Y học Hungari) rằng: “Tôi rất thích tiếng Hung, tôi vẫn nói tiếng Hung hàng ngày nhưng để làm luận án chuyên môn thì có lẽ tiếng Anh thuận lợi cho tôi hơn vì các danh từ chuyên môn tôi quen dùng tiếng Anh, đề nghị cho tôi làm luận án bằng tiếng Anh”. Được sự đồng ý của thầy giáo hướng dẫn, ông như trút được sự lo lắng. Ông nhớ lại:“Tôi làm luận án bằng tiếng Anh thì tất nhiên viết trôi chảy, dễ hơn. Viết xong thì thầy giáo hướng dẫn có sửa chữa, góp ý về mặt chuyên môn, hoặc phần bàn luận, phần kết quả, còn việc hành văn, ngữ pháp thì tôi đã viết đúng”.
Luận án Phó Tiến sĩ của Phạm Đình Lựu nghiên cứu về vấn đề: “Huyết động học của thận trong suy thận sau thiếu máu”. Nghiên cứu của luận án xoay quanh những nguyên nhân gây suy thận cấp, bởi thận là cơ quan được nhận nhiều máu nhất để tạo nước tiểu, với trọng lượng chỉ bằng 1/200 trọng lượng cơ thể nhưng lượng máu qua thận lại chiếm ¼ lượng máu của toàn cơ thể. Chức phận lọc huyết tương của cầu thận chịu ảnh hưởng trực tiếp của huyết áp, khi huyết áp ở mao mạch cầu thận giảm xuống dưới 50mm Hg thì cầu thận ngừng lọc huyết tương dẫn đến hiện tượng vô niệu – một triệu chứng điển hình của suy thận cấp. Khó khăn nhất là thu thập số liệu để phục vụ cho quá trình viết luận án. Nghiên cứu của Phạm Đình Lựu được tiến hành thực nghiệm trên chó, từ đó ông đo các chỉ số huyết động học của thận, định lượng các chất Norepinephrine, Nitơ phi Protein, Catecholamines, huyết tương… tìm ra cơ chế gây suy thận cấp.
Thực hiện đề tài nghiên cứu này cần đến kỹ thuật vi cầu phóng xạ (Vi cầu có đường kính 15 micromet đánh dấu bằng đồng vị phóng xạ của 85Sr hay 141Ce, sử dụng bằng cách tiêm qua một ống thông luồn vào tâm thất trái[1]), mà ở Hungari vào thời điểm đó chưa có vi cầu phóng xạ. Vì thế, ông đã được Viện Hàn lâm Y học Hungari tạo điều kiện, dự trù một khoản kinh phí khá lớn để nhập 85Sr, 141Ce từ nước ngoài phục vụ cho quá trình làm thí nghiệm.
Giáo sư Phạm Đình Lựu cho biết: Hàng trăm con chó đã được gây suy thận để tiến hành kiểm tra, thí nghiệm phục vụ cho nghiên cứu đề tài. Sau khi dùng kỹ thuật vi cầu phóng xạ tiêm vi cầu vào trong tâm thất trái của chó, tôi tiến hành mổ lấy thận, xử lý thận, đưa vào phòng thí nghiệm đo đơn vị phóng xạ. Ngoài ra, còn dùng kỹ thuật dòng chảy đo trị số dòng máu thận (RBF), để có được các thông số: Lưu lượng tim (CO); dòng máu thận (RBF); dòng máu vùng của vỏ thận (ZBF) trong thận. Để tiến hành nghiên cứu phức tạp này cần phải có hai phòng thí nghiệm: một phòng thí nghiệm về phóng xạ, một phòng về hóa học. Phải căn cứ vào số liệu trong quá trình thí nghiệm ở cả hai phòng ấy mới tập hợp những kết quả một cách chính xác nhất[2].
Phạm Đình Lựu (thứ 3 từ trái sang) cùng thầy hướng dẫn – GS.VS Bálint Péter (thứ 2)
và bạn bè trong buổi bảo vệ luận án Tiến sĩ tại Hungari, 1979
Để hoàn thành được những thí nghiệm phức tạp này, sự hỗ trợ hết sức nhiệt tình của đội ngũ kỹ thuật viên rất lành nghề (thuộc Viện Hàn lâm Y học Hungari) có vai trò quan trọng. Hơn 3 năm tại Hungari, phần lớn thời gian của ông là ở phòng thí nghiệm, phần thời gian còn lại, ông tranh thủ vào thư viện Trung ương Hungari, thư viện của Viện Hàn lâm Y học để nghiên cứu tài liệu, bởi vậy, danh mục tài liệu tham khảo của luận án lên đến hơn 300 đầu sách. Năm 1979, bản luận án dày dặn, chứa đựng nhiều công sức và tâm huyết của ông hoàn thành và được bảo vệ thành công tại Viện Hàn lâm Y học Hungari.
Luận án của Phạm Đình Lựu được các nhà khoa học trong Hội đồng chấm luận án đánh giá cao, có độ chính xác tin cậy vì được nghiên cứu bằng kỹ thuật vi cầu phóng xạ. Ông còn nhớ các thầy giáo trong Hội đồng đã đưa ra câu hỏi: “Kết quả này áp dụng gì cho ghép thận không?”. Khi ấy, ông trả lời trôi chảy:“Cũng áp dụng một phần, vì tất cả những bệnh thận đều do động mạch thận quy định. Động mạch thận co lại, máu vào thận quá ít gây ra vô niệu và thể niệu. Tất cả những người suy thận cấp, phải tiến hành ghép thận hoặc chạy thận nhân tạo. Chạy thận nhân tạo không phải là biện pháp chữa trị tận gốc mà ghép thận mới là điều trị tận gốc”. Ông còn nhấn mạnh thêm:“Đề tài của tôi cho biết dòng máu vào thận là bao nhiêu, dòng máu vào tủy thận là bao nhiêu, vào vỏ thận là bao nhiêu, đó là những thông số của thận rất cần có khi ghép thận”[3].
Trên thực tiễn, nghiên cứu từ luận án đã cho biết sự thay đổi thông số huyết động học của thận trong tình trạng suy thận cấp. GS.TS Phạm Đình Lựu giải thích: Suy thận cấp nghĩa là có những tác nhân đột ngột gây suy thận, có thể gây tử vong vì vô niệu (không có nước tiểu, máu bị nhiễm độc do toan hóa). Bình thường độ PH (độ Kiềm) của máu là 7,39, nghĩa là hơi kiềm, khi bị toan huyết (độ PH trong máu dưới 7,35) sẽ gây rối loạn chuyển hóa, nhất là rối loạn về hệ thần kinh trung ương từ đó gây tử vong cho người bệnh.
Đề tài của Phạm Đình Lựu đã chỉ ra các nguyên nhân gây suy thận cấp mà nguyên nhân chính là do những tác động gây tổn thương cơ thể, kích thích thần kinh giao cảm, gây co mạch thận. Mạch thận có nhiệm vụ đưa máu vào thận để lọc nước tiểu, lọc huyết tương, khi mạch thận co vào, không lọc được thì cầu thận không có nước tiểu và ống thận không tái thu được.
Nghiên cứu trong đề tài cũng đưa ra kết luận: Tủy thận không tạo ra nước tiểu, lượng máu khi vào thận thì chỉ có 10% vào đến tủy thận, còn 90% vào vỏ thận, và vỏ thận chính là nơi tạo nước tiểu. Từ đó có thể rút ra nguyên nhân chính gây nên tình trạng suy thận cấp là do máu không vào vỏ thận từ đó gây vô niệu.
Luận án còn chỉ ra cách hạn chế những nguyên nhân gây nên tình trạng suy thận cấp: Một là, tăng huyết áp trong cơ thể để làm cho lượng máu vào thận nhiều hơn; Thứ hai, dùng thuốc lợi niệu để lượng máu vào thận nhiều hơn và tạo nước tiểu; Thứ ba, ức chế hệ thần kinh để từ đó ức chế thần kinh giao cảm và tủy thượng thận. Có thể sử dụng thuốc an thần ức chế thần kinh; thuốc lợi niệu; thuốc trợ tim hoặc trợ lực cho cơ thể để thận có thể làm việc trở lại, làm tăng huyết áp, đồng thời phải truyền dịch tăng huyết áp và tăng lượng máu đến thận.
Giáo sư Phạm Đình Lựu cho biết: Hiện nay nguyên nhân của suy thận cấp chủ yếu là do cơ thể bị các chấn thương mạnh gây mất máu, dập nát cơ, dập nội tạng, bỏng, truyền nhầm nhóm máu. Tất cả những chấn thương đó đều kích thích thần kinh giao cảm và tủy thượng thận, gây ra vô niệu và gây suy thận cấp. Cho nên trong khi bị chấn thương nặng thì chủ yếu phải điều trị biến chứng, tức là điều trị suy thận cấp vì nhiều trường hợp chưa tử vong vì chấn thương lại tử vong do suy thận cấp.
Những kết quả nghiên cứu trong luận án của GS Phạm Đình Lựu không chỉ có ý nghĩa về mặt lý thuyết mà còn có giá trị trên thực tiễn điều trị đối với các bệnh nhân thận. Sau khi bảo vệ luận án thành công, Phạm Đình Lựu chủ yếu tập trung đi theo hướng nghiên cứu này. Ông tâm sự:“Phần lớn những công trình nghiên cứu của tôi đều tập trung vào đề tài suy thận cấp, một bệnh thường xảy ra và đe dọa tính mạng của bệnh nhân ”[4]. Đề tài này là cơ sở để ông cùng đồng nghiệp tiếp tục một loạt các đề tài nghiên cứu, viết sách phục vụ cho nghiên cứu và giảng dạy, như: “Sự tưới máu thận trong suy thận cấp thực nghiệm do thắt niệu quản một bên trong 24 giờ trên chó”. Tạp chí Y học thực hành, 1988; Thực tập sinh lý học. H- Y học, 2003; Sinh lý bệnh học. H- Y học, 2012,…
Ông tâm sự: “Tôi muốn góp phần đào tạo thế hệ trẻ, muốn truyền hết những kiến thức chuyên môn, những hoài bão nghiên cứu, để cán bộ thuộc thế hệ trẻ có đầy đủ khả năng chuyên môn và kỹ thuật, hoàn toàn có thể thay thế lớp cán bộ đã cao tuổi, và còn có thể phát huy tốt hơn thế hệ trước”[5]. Đã gần 80 tuổi, nhưng hàng ngày GS.TS Phạm Đình Lựu vẫn tự mình đi xe máy đến trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch để giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu sinh, cao học. Với ông, tâm huyết dành cho nghề Y chưa bao giờ vơi đi đặc biệt là với đề tài mà ông rất tâm đắc và theo đuổi gần hết cuộc đời mình: Sinh lý và Sinh lý bệnh học thận.
Nguyễn Thanh Hóa
[1] Trích Hồ sơ cá nhân của GS.TS Phạm Đình Lựu lưu giữ tại Trung tâm.