Bài diễn văn của GS Hồ Đắc Di được hoàn thành vào ngày 18-9-1947, gồm 14 trang, bên ngoài bọc bìa màu nâu, đến nay tất cả đều đã rất cũ, có nhiều lỗ thủng do côn trùng cắn. Ông soạn bằng tiếng Pháp và đánh máy bằng giấy than tím trên giấy poluya.
GS Hồ Đắc Di (1900-1984) là một trí thức tiêu biểu thuộc thế hệ tinh hoa của Việt Nam ở thế kỷ 20. Ông là bác sĩ Việt Nam đầu tiên được người Pháp cho phép thực hiện giải phẫu, là hiệu trưởng người Việt đầu tiên của trường Đại học Y và ở cương vị ấy lâu nhất, đến năm 1974. Có thể nói, ông là tượng đài có vị trí quan trọng trong lịch sử hình thành và phát triển trường Y Hà Nội.
Di cảo của GS Hồ Đắc Di còn lại rất ít ỏi và phân tán. Năm 2014, khi làm việc với nhà báo Hàm Châu, nguyên Tổng biên tập Tạp chí Tổ quốc – cơ quan ngôn luận của Đảng Xã hội Việt Nam, chúng tôi được ông tặng một số tài liệu viết tay hoặc đánh máy của các nhà khoa học danh tiếng như Tôn Thất Tùng, Đỗ Tất Lợi, Trần Hữu Tước, Hồ Đắc Di… Vì công tác ở Tạp chí Tổ quốc, lại say mê với khoa học và những câu chuyện khoa học, nên nhà báo Hàm Châu được nhiều trí thức quý mến, thường xuyên được nghe các nhà khoa học kể chuyện, đồng thời cũng được họ tin tưởng trao gửi những tài liệu, bút tích của mình. Bài diễn văn của GS Hồ Đắc Di được giao cho nhà báo Hàm Châu vào thập niên 70 của thế kỷ trước. Mặc dù đã nhiều lần chuyển chỗ ở, ông vẫn cất giữ cẩn thận tài liệu quý này, và đến năm 2014 ông bàn giao cho Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam.
Trang đầu tiên bài diễn văn của GS Hồ Đắc Di
Bản dịch bài diễn văn này sang tiếng Việt cũng được lưu trữ tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam. Đó là một tài liệu đánh máy bằng giấy than xanh trên giấy có khổ lớn hơn bản tiếng Pháp, đã bị rách mép. Bản tiếng Việt – có lẽ dịch và đánh máy sau ngày hòa bình lập lại ở miền Bắc – đã được đưa vào một số ấn phẩm, như cuốn 100 năm Đại học Y Hà Nội – Những kỷ niệm (Nxb. Y học, 2002), cuốn Hồ Đắc Di – Cuộc đời và sự nghiệp (Nxb. Y học, 1999)…
Theo tờ tin của trường Y (Nouvellesd e la Faculté, bản đánh máy), lễ khai giảng tổ chức trọng thể ngày 6-10-1947 ở làng Ải, thuộc chiến khu 10. Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Nguyễn Văn Huyên chủ tọa buổi lễ, bên cạnh đó có nhiều cán bộ lãnh đạo tham dự, như: Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia Việt Nam Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng Y tế Hoàng Tích Trý, Thứ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục Nguyễn Khánh Toàn, Phó trưởng Ban thường trực Quốc hội Phạm Bá Trực, Cục trưởng Quân y Vũ Văn Cẩn, đại diện Bộ Tài chính, Bộ Kinh tế…, có cả ông Nguyễn Thành, Chủ tịch Ủy ban Hành chính kháng chiến tỉnh Tuyên Quang. Về phía nhà trường, không chỉ có các giáo sư, sinh viên, nhân viên, mà có cả nhiều người trong gia đình của họ. Bản tin còn mô tả rằng cử tọa đã nhiều lần vỗ tay nồng nhiệt bài nói của cụ Hiệu trưởng Hồ Đắc Di[1].
Để viết bài diễn văn khai giảng này, Hiệu trưởng Hồ Đắc Di đã trăn trở, suy nghĩ rất nhiều. Sinh viên trong trường thường thấy “cụ Di” hay đi ra đi vào và suy tư gì đó. Sau khi soạn xong, ông còn đọc đi đọc lại để không bị vấp khi phát biểu trong lễ khai giảng. GS Vũ Triệu An – sinh viên y khoa có mặt trong những ngày tháng đó, đến nay vẫn nhớ: Thầy Di vừa đi vừa lẩm nhẩm đọc bài diễn văn, chứng tỏ thầy đã chuẩn bị rất cẩn thận và công phu cho bài phát biểu của mình[2].
GS Hồ Đắc Di gửi gắm vào bài diễn văn những điều tâm huyết của ông. Thứ nhất là sứ mệnh của trường Y: Tìm hiểu cái thật và yêu cái đẹp để làm điều thiện. Thứ hai, sứ mệnh của sinh viên y khoa là làm chủ tri thức, rèn luyện đạo đức, văn hóa và có trách nhiệm với nhân dân và đất nước. Cả hai sứ mệnh ấy đều phải gắn với sứ mệnh chung lớn lao là độc lập và thống nhất đất nước.
Một bài diễn văn ra đời trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, khi thực dân Pháp đã quay lại xâm lược Việt Nam lần thứ hai, trường Y phải rời khỏi Hà Nội, chuyển lên vùng rừng núi xa xôi với muôn vàn khó khăn. Tác giả bài diễn văn – GS Hồ Đắc Di trước năm 1945 đã từng làm việc trong bệnh viện của người Pháp, từng chịu thân phận người dân của một nước thuộc địa. Điều gì đã thay đổi trong nhận thức của GS Hồ Đắc Di, khi từ một viên chức làm việc cho người Pháp trở thành người đứng đầu một trường đại học danh tiếng của lực lượng kháng chiến chống Pháp? Để hiểu về bài diễn văn lịch sử này, cần hiểu thêm những suy nghĩ của GS Hồ Đắc Di khi còn ở địa vị người dân một nước thuộc địa, và cả suy nghĩ của ông trước thực tại khó khăn của cuộc kháng chiến chống Pháp.
Hồ Đắc Di sinh ra ở Huế, trong một gia đình danh gia vọng tộc có nhiều người làm quan cho triều Nguyễn. Ông nội là Hồ Đắc Tuấn, được phong tước Hầu, bà nội là Công nữ Thức Huấn – con gái Tùng Thiện Vương Miên Thẩm. Cụ thân sinh của Hồ Đắc Di là Khánh Mỹ quận công Hồ Đắc Trung, làm quan đến chức Tổng đốc Nam Ngãi, Thượng thư các bộ Học, Lễ, Công, và là Đông các điện Đại học sĩ, sung Cơ mật đại thần. Anh em của ông cũng đều là trí thức, giữ những vị trí quan trọng trong triều đình nhà Nguyễn và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Mặc dù xuất thân và chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho học, nhưng ngay từ nhỏ Hồ Đắc Di đã được gia đình hướng con đường học tập sang trời Tây. Giữa lúc thời cuộc nhiễu nhương, sự giao lưu và tiếp biến văn hóa Đông – Tây diễn ra mạnh mẽ thì việc hướng theo Tây học có lẽ là sự lựa chọn hợp thời và có thể đem lại một tương lai tươi sáng hơn. Với điều kiện của một gia đình quan lại, Hồ Đắc Di được gửi ra Hà Nội học tại trường Lycée Albert Sarraut. Từ năm 1918 đến 1930, trong khi ở Việt Nam có nhiều biến động và phong trào yêu nước sôi nổi, Hồ Đắc Di du học tại Pháp. Ông học trung học ở Bordeaux, sau đó theo học y khoa tại trường ĐH Tổng hợp Paris.
Sau hơn chục năm đi du học, Hồ Đắc Di trở về nước là một trí thức Tây học đã tiếp thu những tư tưởng mới mẻ, nguyện đem sở học của mình ra phục vụ nhân dân. Nhưng sau cao trào cách mạng Xô viết Nghệ Tĩnh, thực dân Pháp tăng cường đàn áp các phong trào yêu nước, siết chặt các hoạt động văn hóa, tư tưởng. Hồ Đắc Di về Huế và làm việc như một bác sĩ thực tập một thời gian, sau đó được điều chuyển vào Quy Nhơn công tác. Năm 1932, ông được mời ra Hà Nội làm việc tại trường ĐH Y và Bệnh viện Phủ Doãn. Tại đây, ông đã dũng cảm nói lên quan điểm cá nhân và đấu tranh đòi được hành nghề giải phẫu. Với sự cương quyết và tấm lòng trong sáng, ông trở thành người Việt Nam đầu tiên được chính quyền thực dân Pháp cho làm bác sĩ phẫu thuật.
Chứng kiến cảnh lầm than của nhân dân, sự coi thường của người Pháp đối với người bản xứ, Hồ Đắc Di cảm thấy tủi nhục mà không biết làm cách nào để thay đổi. Trong lúc ấy, phần đông trí thức cũng chỉ dám bày tỏ tiếng nói yêu nước một cách kín đáo thông qua các bài viết trên báo và tạp chí. Khi thời cơ đến, đại bộ phận họ hướng theo lá cờ Việt Minh để làm cuộc cách mạng lật đổ ách thống trị của thực dân, phong kiến, giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ.
Trong và sau Cách mạng tháng Tám, do ảnh hưởng của Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh, thấm nhuần truyền thống dân tộc và đặc biệt là tinh thần yêu nước luôn đau đáu trong tâm can, nên những trí thức như Hồ Đắc Di đã sẵn sàng tham gia cách mạng và đi theo kháng chiến một cách vô tư. Tài năng của những trí thức này được nhìn nhận một cách trân trọng, xác đáng khi họ được giao giữ những chức vụ quan trọng trong Chính phủ và bộ máy của các ngành, các cấp.
Với GS Hồ Đắc Di, từ trước đó ông đã bị thu hút bởi hoạt động của nhóm Việt Nam yêu nước ở Pháp do Nguyễn Ái Quốc đứng đầu. Tám yêu sách của Nguyễn Ái Quốc đưa ra tại Hội nghị Versailles gây tiếng vang lớn, đồng thời cũng thức tỉnh lòng yêu nước trong cộng đồng Việt kiều. Đến những ngày Cách mạng tháng Tám thì ảnh hưởng ấy càng lớn, như ông đã kể lại: Nghe ba chữ Nguyễn Ái Quốc tôi rất xúc động. Thì ra, Người mà mình vẫn hằng nghe tiếng, vẫn được nghe bạn bè hỏi đến, người đó đã cất tiếng nói đanh thép đòi quyền lợi chính đáng của đất nước Việt Nam, làm cho bất cứ người Việt Nam nào cũng cảm thấy tự hào ấy chính là người ngồi trước mặt tôi kia. Thời ấy, một số anh em sinh viên chúng tôi tham gia bán báo “Người cùng khổ” và “Việt Nam hồn” cho thợ thuyền ở khu Latinh. Bấy giờ lính thợ Việt Nam ở Paris cũng nhiều, anh em rất quen biết hai tờ báo trên và tên ông Nguyễn Ái Quốc[3].
GS Hồ Đắc Di phát biểu tại lễ tổng kết năm học của trường ĐH Y, 1952
(bên trái ông: Bộ trưởng Nguyễn Văn Huyên, GS Tôn Thất Tùng)
Sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, bác sĩ Hồ Đắc Di được Chính phủ giao nhiều nhiệm vụ quan trọng: Tổng thanh tra Y tế, Tổng giám đốc Đại học vụ, Giám đốc Bệnh viện Đồn Thủy. Ngay ngày 23-9-1945, thực dân Pháp nổ súng ở Nam bộ, trở lại xâm lược nước ta. Từ ngày toàn quốc kháng chiến (19-12-1946), GS Hồ Đắc Di tích cực tham gia tổ chức cứu chữa cho thương binh và nhân dân, đồng thời quyết tâm duy trì trường Y để phục vụ cho cuộc kháng chiến.
Phải di chuyển khỏi Hà Nội, thầy trò trường Y đi qua nhiều chặng rồi cuối cùng đến bến đò Quẵng ở Tuyên Quang vào một buổi chiều cuối tháng 5-1947, nơi mà theo mô tả của bác sĩ Hồ Đắc Di là: Rừng núi hoang vu, nhìn quanh chỉ thấy một màu lá xanh, tưởng chừng chỗ nào cũng đầy rẫy những ổ muỗi, thú rừng. Mùi lá mục ẩm ướt dưới chân, trên cây cỏ, hàng đàn vắt vươn vòi chực hút máu càng làm tôi ngần ngại[4]. Giữa chốn “rừng thiêng nước độc”, bác sĩ Hồ Đắc Di không khỏi băn khoăn: Trước mặt tôi là con ngòi Quẵng, nước lũ đục ngầu, vỗ vào hai bờ đá réo ào ào. Cả một vùng hoang vu chỉ thấy trơ trọi một mái nhà. Còn người địa phương lúc ấy cũng chỉ thấy một mình người lái đò. Tôi nhìn vợ con, nhìn núi rừng, lòng buồn man mác. Tôi đã quyết định ra đi theo kháng chiến, theo tiếng gọi của lương tâm; nhưng thực ra ra đi trong lòng cũng chưa hoàn toàn yên tĩnh. Nhìn sông nước mênh mang trước mặt, tôi cảm thấy mung lung, ái ngại[5].
Thầy trò trường Y chia nhau ở nhờ nhà dân, một số ở nhà bè hay lán nứa do chính tay mình dựng lên. Một thời gian ngắn sau, họ đã có cơ ngơi tạm ổn, ở đó có phòng mổ trên nhà sàn, xung quanh được vây bằng màn trắng sạch sẽ, có giảng đường mái tranh vách nứa, phòng xét nghiệm đơn sơ… Khi ấy cả trường chỉ có hai giáo sư là bác sĩ Hồ Đắc Di và bác sĩ Tôn Thất Tùng (sau năm 1950 mới có thêm bác sĩ Đặng Văn Ngữ ở Nhật về), có một số y tá và 11 sinh viên – gọi là sinh viên xung phong. Những năm tháng ở Việt Bắc là thời kỳ vô cùng gian khó, nhưng nhờ nghị lực và lòng yêu nước sáng trong, GS Hồ Đắc Di cùng với GS Tôn Thất Tùng trở thành linh hồn của trường Y trong việc đào tạo cán bộ y tế và phục vụ trực tiếp cho kháng chiến.
Ngày 6-10-1947, trường ĐH Y của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa khai giảng khóa đầu tiên tại Chiêm Hóa, Tuyên Quang, với chương trình giảng dạy bằng tiếng Việt. Trong bài diễn văn của mình, Hiệu trưởng Hồ Đắc Di nhấn mạnh ý nghĩa của sự kiện này: Nó xác nhận quyết tâm không gì lay chuyển của chính phủ muốn giữ nguyên nhiệm vụ thiêng liêng và cổ truyền của trường đại học là đào tạo những người có văn hóa và có học thức, nghĩa là những cán bộ kỹ thuật và những con người tự do.
Trường đại học không chỉ là nơi đào tạo những cán bộ phục vụ kháng chiến cũng như cho tương lai của đất nước, mà còn là nơi khơi dậy, cổ vũ tinh thần yêu nước của thanh niên, trí thức trẻ tuổi. Bác sĩ Hồ Đắc Di cho rằng việc tập hợp sinh viên dưới mái trường đại học cũng là một dịp để thể hiện lòng yêu nước: Tổ quốc lâm nguy cần sự tập hợp của mọi đứa con không phân biệt giai cấp, đảng phái hay tôn giáo vì mục đích chung. Sự đoàn kết thiêng liêng là yêu cầu tuyệt đối và sống còn, nếu không nước Việt Nam sẽ có nguy cơ vĩnh viễn xóa khỏi bản đồ thế giới. Trong cuộc đời người ta thường không có dịp để được hiến dâng và chết cho Tổ quốc. Thì đây! Thưa các bạn! Dịp ấy đây! Hãy chớp lấy thời cơ!
Từng câu, từng chữ trong bài diễn văn của GS Hồ Đắc Di chứa đựng ý tứ sâu sắc, thể hiện tư duy ở tầm cao của một nhân cách lớn. Ông khẳng định nhiệm vụ cao cả của trường Y: Trong giờ phút nghiêm trọng mà chúng ta đang trải qua rất có ý nghĩa: Nó xác nhận quyết tâm không gì lay chuyển của Chính phủ muốn giữ nguyên nhiệm vụ thiêng liêng và cổ truyền của trường đại học là đào tạo những người có văn hoá và có học thức, nghĩa là những cán bộ kỹ thuật và những con người tự do.
Là người đứng đầu một trường đại học lớn, GS Hồ Đắc Di lường trước được những hiểm nguy, tổn thất, hi sinh trong cuộc kháng chiến, nhưng vẫn luôn lạc quan. Ông đã biến lễ khai giảng thành một buổi diễn thuyết, nhắc lại những giá trị truyền thống, lòng yêu nước, lịch sử chống ngoại xâm hào hùng của dân tộc Việt Nam. Những tội ác của kẻ thù được nhắc lại, những tiến bộ khoa học của loài người được nêu lên là sự phủ nhận đối với cuộc chiến tranh phi nghĩa của thực dân Pháp ở Việt Nam. Bởi vậy, ông nói với sinh viên y khoa bằng cách xác định trách nhiệm của mỗi người: Trong phút giây lịch sử mà sự bất trắc còn đè nặng lên vận mệnh của Tổ quốc, chúng ta hãy hướng lòng mình về những anh hùng dân tộc … Tất cả chúng ta hãy để cho mình được cuốn theo làn gió lớn vĩ đại, làn gió ấy đang dựng dậy cả một dân tộc. Hãy đưa những âm thanh cao vút vào lòng say mê lý tưởng của chúng ta. Hãy nhấn chìm mọi lợi ích cá nhân.
GS Hồ Đắc Di chỉ ra rằng sinh viên trường Y phải lắng nghe lời kêu gọi cầm vũ khí mà cha ông đã phát ra từ chiều sâu lịch sử. Ông khích lệ như lời hiệu triệu: Kìa, cha ông chúng ta đang từ trong mộ đứng thẳng dậy, ra hiệu cho chúng ta làm tròn nhiệm vụ. Và dường như để thuyết phục những người còn lưỡng lự, bên tai chúng ta bỗng nghe văng vẳng từ tiếng rồi rền vang thành lời kêu gọi mênh mang tiếng giục giã “Tiến lên” mà đời sau sẽ còn nhắc mãi. Giờ giải phóng trên đồng hồ lịch sử đã điểm. Nó thúc kèn tập hợp mọi lực lượng, động viên mọi cố gắng cao nhất và quyết định nhất chắc chắn sẽ đưa ta tới độc lập và tự do, vĩnh viễn giải phóng mảnh đất thiêng liêng này – mảnh đất ngày hôm qua là cái nôi của tuổi thơ ấu và ngày mai sẽ là nơi an nghỉ cuối cùng của chúng ta – thoát khỏi xiềng xích nô lệ.
Sự đồng cảm và thấu hiểu là điều dễ nhận thấy trong những lời lẽ mượt mà, sâu sắc của GS Hồ Đắc Di. Qua đó, có thể cảm nhận được quyết tâm của người đứng đầu trường Y, một ý chí lớn lao trong việc chiếm lĩnh chuyên môn khoa học và hơn hết là độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân. Ông bày tỏ: Tôi tin tưởng rằng ý định của tôi cũng tìm được sự đồng cảm đặc biệt với những nguyện vọng sâu xa nhất của các bạn, bởi vì tôi đã đọc được trên nét mặt của các bạn bầu nhiệt huyết hăng say ấy và đã thấy trong ánh mắt của các bạn sáng lên ngọn lửa mãnh liệt ấy. Những cái đó chứng tỏ sự xúc động cũng như quyết tâm không lay chuyển của các bạn đi theo con đường vừa mới vạch ra, một con đường có sự ủng hộ của lương tâm, sự ưng thuận của lý trí và sự đồng tình của trái tim. Lời phát biểu cuối cùng trong bài diễn văn này, GS Hồ Đắc Di nhấn mạnh đến mấy chữ – cũng là khát khao của nhân dân Việt Nam: Thống nhất và độc lập dân tộc.
Trường Y vừa khai giảng được một ngày thì quân Pháp nhảy dù xuống Bắc Kạn, bắt đầu cuộc tấn công Việt Bắc. Một thời gian sau, chúng đánh vào khu vực của trường tại Chiêm Hóa, trường phải chuyển vào sâu hơn trong rừng. Máy bay “bà già” của Pháp đến tận nơi ở của gia đình bác sĩ Tôn Thất Tùng, bác sĩ Hồ Đắc Di, TS Nguyễn Văn Huyên…, gọi loa xuống mời những trí thức lớn này về Hà Nội làm việc. Bác sĩ Hồ Đắc Di đã kể về một lần như thế: Nghe tiếng chúng, tôi rợn tóc gáy, tim đập tưởng như muốn vỡ ra. Tôi lo quá. Vợ tôi đưa mắt nhìn tôi. Chúng biết rõ chỗ chúng tôi nấp thật chăng? Trong cơn hoảng hốt, tôi đã nói nhỏ với vợ tôi một câu mà tôi còn nhớ mãi, một câu nói hết sức tỉnh táo: Chết thì chết chứ không để bọn Pháp bắt lại một lần nữa. Câu nói ngắn gọn trong giây phút căng thẳng đó không phải là ý nghĩ thoảng qua, mà là điều tôi đã nghiền ngẫm từ lâu, đã ăn sâu trong tiềm thức tôi[6].
Trong 9 năm kháng chiến chống Pháp, trường ĐH Y tại Việt Bắc đã đào tạo ra nhiều lớp sinh viên y khoa, cán bộ y tế, phục vụ trực tiếp cho cuộc kháng chiến. Bài diễn văn khai giảng khóa đầu tiên của Hiệu trưởng Hồ Đắc Di được nhắc tới như một áng văn mẫu mực với những ý nghĩa chính trị và khoa học lớn lao. Mặc dù trường phải di chuyển tới 13 lần, và ngay cả những lần cùng gia đình chạy giặc, GS Hồ Đắc Di vẫn mang theo tài liệu này. Nhờ vậy, đến nay, nó trở thành một tài liệu – hiện vật quý giá, đánh dấu một thời khắc quan trọng đặc biệt trong chiều dài lịch sử của trường ĐH Y và nền y tế Việt Nam.
Nguyễn Thanh Hóa
* GS Hồ Đắc Di (1900-1984) là nhà Y học, nguyên Hiệu trưởng trường ĐH Y Hà Nội.
[1] 100 năm Đại học Y Hà Nội – Những kỷ niệm, Nxb. Y học, 2002, tr.131.
[2] Nguyễn Thanh Hóa, Lê Thị Hằng, Vũ Triệu An – Hành trình y học, Nxb. Y học, 2020, tr.38.
[3] Hồi ký của GS Hồ Đắc Di – Kỷ niệm 20 năm ngày giải phóng Thủ đô (1954-1975), bản đánh máy năm 1975, lưu trữ tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam, tr.4.
[4] Hồi ký của GS Hồ Đắc Di – Kỷ niệm 20 năm ngày giải phóng Thủ đô (1954-1975), đã dẫn, tr.10.
[5] Hồi ký của GS Hồ Đắc Di – Kỷ niệm 20 năm ngày giải phóng Thủ đô (1954-1975), đã dẫn, tr.10.
[6] Trường Đại học Y Hà Nội, Những bài phát biểu của Giáo sư Hồ Đắc Di (giai đoạn 1945-1954), 1995, tr.11.