Và cũng bởi bản chất của văn hóa là động, những gì đang là hiện tại, sẽ trở thành quá khứ, Nhân Dân điện tử xin được khép lại loạt bài phỏng vấn về các vấn đề của hoạt động Bảo tồn, Phát huy di sản Văn hóa dân tộc, với mong muốn, sẽ tiếp tục trở lại vấn đề “không bao giờ cũ” này, mang theo những thông tin lạc quan hơn đưa đến cùng bạn đọc. Xin chân thành cảm ơn các nhà khoa học, nhà quản lý, cùng đông đảo bạn đọc đã đồng hành cùng chúng tôi.
Bảo tồn “tĩnh” hay “động”, lưu giữ nguyên trạng hay chấp nhận biến thái… hiện vẫn đang là những tranh luận và lựa chọn giữa các nhà khoa học, giữa các địa phương và ngay trong các cộng đồng dân cư đang sở hữu di sản văn hóa phi vật thể. Trong khi đó, càng ngày các Giá trị văn hóa phi vật thể càng đối diện nhiều hơn với những nguy cơ mai một, thậm chí, thất truyền. Nghiêng về góc nhìn đi đến sự thích ứng với điều kiện xã hội hiện đại, GS.TS Ngô Ðức Thịnh, Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia, nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa Việt Nam, cho rằng: phải đi bằng cả “hai chân”, lưu giữ và truyền dạy. Tất nhiên, chấp nhận…
PV: Thưa Giáo sư, các di sản văn hóa phi vật thể đang phải chịu những tác động nặng nề từ chính sự phát triển của xã hội hiện đại?
GS.TS Ngô Ðức Thịnh: Xã hội nào cũng thế, đều có những bước ngoặt trong tiến trình phát triển. Xã hội Việt Nam, theo tôi, lại đang trong bước chuyển đổi “kép”: từ truyền thống sang hiện đại, đồng thời, từ chủ nghĩa xã hội quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước, hiện thực hơn, nhân văn hơn. Do vậy, tạo nên những biến đổi trên các phương diện từ con người, kinh tế, xã hội… trong sự chuyển đổi to lớn đó, văn hóa tất yếu phải chuyển đổi để thích ứng. Văn hóa phi vật thể, tuy cũng là kết quả của sáng tạo con người, nhưng khác với văn hóa vật thể, những kết quả của sáng tạo ấy không được khách thể hoá (nói theo từ chuyên môn, nghĩa là nó vẫn tiềm ẩn ngay trong chính bản thân con người). Mà con người thì hữu hạn và mong manh lắm. Trong nghiên cứu, chúng tôi hay nói điều này: Có khi một con người nằm xuống, họ đã mang theo cả một gia tài của dân tộc, quốc gia. Một điểm cần được lưu ý nữa khi nhìn nhận về Văn hóa Việt Nam, là chúng ta đang chịu tác động của văn hóa phương Tây. Khác với phương Tây, khi họ chuyển từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại, thì vẫn là bước chuyển từ “cái của tôi” sang “cái của tôi”. Xã hội Việt Nam, với bước chuyển từ xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp, là bước chuyển từ cái đã có – của mình, sang một cái mới hoàn toàn khác biệt – không phải của mình. Tất nhiên, khi tiếp nhận vào Việt Nam thì các giá trị mới đó ít nhiều đã được “Việt Nam hoá”, nhưng dù sao thì đó vẫn là mô hình văn hóa có nguồn gốc phương Tây. Sự nhiễu loạn về văn hóa, như nhiều người than phiền, hiện có một phần nguyên nhân từ cách làm của chúng ta, một phần, từ sự tất yếu của một giai đoạn xã hội chuyển đổi. Với văn hóa phi vật thể, không thể tránh khỏi việc phai nhạt, mất đi nhiều giá trị.
PV: Làm thế nào bảo tồn được các di sản của truyền thống, khi mà, theo như Giáo sư vừa nói: văn hóa phi vật thể tồn tại trong chính con người, còn con người, lại rất mong manh…?
GS.TS Ngô Ðức Thịnh: Có một mệnh đề rất quan trọng là Bảo tồn văn hóa phi vật thể chính là bảo vệ những con người đang lưu giữ các giá trị đó. Cần nhận thức rằng, việc mất đi của một số giá trị văn hóa phi vật thể là quy luật tất yếu. Chúng ta, khi nhận thức được, chỉ có thể bằng các hoạt động chủ quan, với nhiều hình thức để cố gắng lưu giữ lại. Như kinh nghiệm một số đồng nghiệp ở Trung Quốc trao đổi với tôi, họ nói rằng: Trong quá trình hiện đại hóa thì việc mất đi các giá trị văn hoá phi vật thể là điều đã được đoán trước, nên hiện họ đang cố gắng tư liệu hóa đến mức có thể để lưu giữ lâu dài. Hiện họ có những bộ sách mô tả lại một điệu múa, bài dân ca… chi tiết đến mức họ tự tin nói rằng, 1.000 năm nữa, căn cứ vào đó cũng có thể phục dựng lại được. Cá nhân tôi cho rằng, họ có lý. Và trên thực tế, tôi cũng đã nhận được nhiều lời yêu cầu giúp đỡ phục dựng lại một số di sản văn hoá phi vật thể, nhưng tìm trong tư liệu lịch sử thì hầu như không có. Thế nên, hiện tôi đưa ra hai phương pháp Bảo tồn văn hóa phi vật thể: một, phương pháp bảo tồn tĩnh: quay phim, chụp ảnh, ghi chép để tư liệu hóa thật chi tiết (khi có nhu cầu, thì căn cứ vào đó để phục dựng); hai, bảo tồn động: đưa nó về với cộng đồng. Vì, cộng đồng chính là chủ thể của di sản, không ai có thể thay thế họ. Tất nhiên, khi bảo tồn trong cộng đồng thì nó sẽ biến đổi, nhưng “cái hồn” của di sản vẫn sẽ được người dân lưu giữ. Còn cố níu giữ cái cũ, mà người dân không chấp nhận, thì cũng không được. Có thể, qua quá trình phát triển, nó sẽ gắn với một tâm thức khác. Vấn đề là ta phải chủ động tạo điều kiện cho nó kế thừa, và nhập vào xã hội mới.
PV: Từ góc nhìn của một nhà khoa học, Giáo sư đánh giá như thế nào về mối quan hệ giữa văn hóa và du lịch, hiện nay?
GS.TS Ngô Ðức Thịnh: Bản chất của văn hóa và du lịch không đối lập nhau. Cũng như hiện nay đang có câu chuyện về sự xung đột giữa bảo tồn và phát triển. Về bản chất, hai vấn đề này không phải là hai véc-tơ trái chiều, nhưng nhiều khi, do cách làm chưa phù hợp, chúng ta đã biến nó thành như vậy. Liên quan đến vấn đề này, tôi nhớ ông G. Côn-đô-mi-nát, tại cuộc Hội thảo khoa học dịp UNESCO công nhận Huế là di sản văn hóa thế giới, đã nói: trong du lịch văn hóa, các bạn đang có một quan điểm rất sai lầm, đó là: các bạn muốn để người nước ngoài chúng tôi đến, nên các bạn cố gắng nghĩ xem chúng tôi cần cái gì, và các bạn làm theo. Trong khi, để cho chúng tôi thích, thì các bạn phải làm cái mà các bạn có, các bạn thích và với tất cả tâm hồn, tình cảm của các bạn. Bởi, cái mà chúng tôi đi tìm chính là bản sắc văn hóa, là nét độc đáo trong tâm hồn của người Việt Nam. Tôi cho rằng, đó là một nhận xét hoàn toàn đúng. Vì bản chất của văn hóa là nơi con người thể hiện bản sắc, tâm hồn, tình cảm, khát vọng của mình. Chúng ta đang bỏ ra rất nhiều tiền để phục dựng lại nhiều di sản diễn xướng, lễ hội, nhưng lại trở thành một thứ sản phẩm sân khấu hóa. Ðiều đó rất nguy hiểm, bởi các sản phẩm văn hóa đó, thực chất, rất trống rỗng. Việc phục dựng và trả tiền cho nghệ nhân biểu diễn là bất khả kháng, nhưng phải làm sao để những người biểu diễn đó hiểu đây không phải chỉ thuần túy là một việc làm nhằm mục đích tăng thêm thu nhập, mà còn là một sinh hoạt văn hóa, để họ có thể thể hiện phần nào “cái hồn” của di sản đó. Ðể có thể gắn kết hiệu quả việc bảo tồn văn hóa với hoạt động du lịch, theo tôi, điều quan trọng nhất là phải xác định rõ: lợi ích (vật chất và tinh thần) thuộc về ai? Khi người dân ý thức được giá trị, lợi ích của việc mình làm, thì họ sẽ tự biết bảo vệ, và khi đó, di sản sẽ được bảo tồn theo cách bền vững nhất.
PV: Liên quan đến một “câu chuyện” đang được xem là thời sự của đời sống văn hóa: các Di sản Việt Nam được UNESCO công nhận, theo Giáo sư, trong niềm vinh dự, và cơ hội lớn đó, có tiềm ẩn những nguy cơ?
GS.TS Ngô Ðức Thịnh: Việc UNESCO công nhận các Di sản văn hóa Việt Nam (cả vật thể và phi vật thể) vào danh sách các Di sản văn hóa thế giới là niềm vinh dự lớn. Ðiều này đã tạo nên một “xung” tác động lớn đến nhận thức xã hội về vấn đề bảo vệ di sản. Việc cố gắng giới thiệu di sản của chúng ta để UNESCO nhìn nhận và công nhận là việc khó, nhưng khó hơn vẫn là sau khi được công nhận thì sự cam kết bảo vệ nó như thế nào. Cần nhìn nhận rằng, việc bảo vệ di sản là nhiệm vụ của chúng ta, chúng ta làm vì chính chúng ta, chứ không phải đơn thuần vì mục tiêu được công nhận, hay những sức ép từ góc nhìn của các chuyên gia, tổ chức quốc tế. Thêm nữa, nếu không tỉnh táo, thì cái được sẽ rất ít, mà cái mất lại nhiều hơn, nhất là khi đưa văn hóa vào du lịch. Chính ở đây, và trong giai đoạn này, sẽ thử thách bản lĩnh của văn hóa, con người Việt Nam.
PV: Xin cảm ơn Giáo sư.
NGÔ PHƯƠNG THẢO (thực hiện)
Nguồn: www.baomoi.com/Home/VanHoa/www.nhandan.com.vn/Bao-ton-la-luu-giu-truyen-day-va-chap-nhan/4932513.epi