Ngô Văn Bưu thuộc thế hệ những “hạt giống đỏ” được Đảng cử đi học ở Khu học xá Nam Ninh, Trung Quốc từ khi cuộc Kháng chiến chống Pháp còn đang diễn ra rất ác liệt. Học chưa được một năm ở Khu học xá thì thủ đô được giải phóng (10-1954), ông trở về Hà Nội, học năm thứ nhất Ban Toán Lý Hoá, trường Đại học Sư phạm Khoa học. Chưa dừng ở đó, cuộc đời tựa những chuyến đi dài ngày và sự học của ông cũng là một cuộc hành trình không bao giờ ngừng nghỉ. Vài tháng sau, ông được đi học lớp chỉnh huấn để sang Liên Xô học ngành Địa vật lý của trường Đại học Địa chất Thăm dò Mátxcơva. Những tưởng sẽ được đi đây đi đó theo nghề thăm dò, tìm kiếm khoáng sản, nhưng về nước, Ngô Văn Bưu lại được phân công giảng dạy ở trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Khoa Mỏ-Luyện kim.
Những ngày đầu ở trường Đại học Bách khoa
Những ngày đầu tiên bước chân vào làm nghề thầy giáo thật đáng để nhớ và tự hào. Trước khi về nước, Ngô Văn Bưu được thông báo chuẩn bị về giảng dạy tại Khoa Mỏ – Luyện kim của trường Đại học Bách khoa. Quyết định này đem đến cho ông sự ngỡ ngàng vì ông vốn không thích dạy học lắm, nhưng ông nghĩ sẽ sẵn sàng thực hiện khi được phân công. Cùng học với ông ở Liên Xô có ông Hồ Đắc Hoài, muốn về dạy học lại được phân về Tổng cục Địa chất làm việc. Thật là chẳng được như mong muốn.
Ngô Văn Bưu đến gặp thầy Lép Lvôvich Liakhốp – Chủ nhiệm Khoa Địa vật lý của trường Đại học Địa chất Thăm dò Mátxcơva và trình bày về việc ông được phân công giảng dạy tại một trường Đại học, mong muốn thầy giáo cho mình lời khuyên và định hướng. Thầy đã chỉ bảo tỉ mỉ cho ông chuẩn bị các đề cương chương trình như thế nào, từng bài giảng phải làm sao, và thầy giáo tặng một số tài liệu để ông tham khảo dạy học.
Giáo sư Ngô Văn Bưu kể lại: Trước khi về nước làm việc, ông Đặng Xuân Đỉnh[1] – khi đó là cán bộ lãnh đạo của trường Đại học Bách khoa sang công tác và vào thăm các sinh viên Việt Nam, có hỏi tôi: “Cậu đã chuẩn bị những gì cho việc dạy học”. Tôi nói: Em đã nói chuyện việc về nước dạy học, xin ý kiến các thầy và chuẩn bị mấy hòm sách để mang về”. Anh Đỉnh lại hỏi: “Thế đã có xe đạp chưa?”. Tôi thật thà: Chưa có ạ. Anh Đỉnh nói ngay: “Cậu phải thu xếp để có xe đạp”. Nghe lời anh, tôi chi tiêu tằn tiện, tiết kiệm tiền và mua được chiếc xe đạp Sputnik. Về nước công tác tôi mới thấy rõ chiếc xe đạp quan trọng như thế nào để đi dạy học, đi công tác xa trong những năm tháng đất nước còn chiến tranh và luôn nhớ lại lời khuyên rất chân tình của anh Đỉnh”.
Đó là toàn bộ sự chuẩn bị gấp gáp của Ngô Văn Bưu cho việc nhận công tác giảng dạy ở trường Đại học Bách khoa. Sau khi về nước, Ngô Văn Bưu được phân về giảng dạy ở Bộ môn Địa chất, Khoa Mỏ – Luyện kim, trường Đại học Bách khoa. Ông vẫn còn nhớ như in đó là ngày 29-7-1961. Nhận công tác được khoảng 2 tuần, ông bắt đầu giảng Địa vật lý đại cương cho sinh viên Địa chất khóa 3. Theo ông, giảng dạy thật khó, trước hết vì chưa có giáo trình về Địa vật lý đại cương. Mặc dù ông mang về rất nhiều sách nhưng đó là sách chuyên môn cho từng chuyên ngành địa vật lý, viết với cơ sở toán lý cao cấp, chưa có giáo tringf phù hợp với sinh viên. Khó khăn thứ hai là ông chưa hiểu biết về Địa chất Việt Nam để trình bày sát với thực tế của đất nước. Và nữa, ông mới được học nghiệp vụ sư phạm dở dang trước khi đi học ở Liên Xô.
GS.TSKH Ngô Văn Bưu
Những năm đầu dạy ở Bách khoa ông chỉ tập trung truyền đạt kiến thức lý thuyết, đem hết những kiến thức mình đã được học để truyền lại cho sinh viên.Ông rất lo lắng, lo sao khi giảng mình không bị cháy giáo án, không nói quá dài hoặc quá ngắn, làm sao để phần bài soạn của mình phải phù hợp với thời gian đứng trên lớp. Ông chia sẻ: “Lúc đó tôi chỉ biết mang hết khả năng của mình để truyền thụ các kiến thức mình biết cho sinh viên. Tôi nói cho họ từng phương pháp địa vật lý được tiến hành ra sao, dùng máy móc, giải thích kết quả như thế nào, trong điều kiện nào thì kết quả tốt, hoàn cảnh nào thì kết quả xấu, phải phối hợp thế nào với các nhà địa chất để khai thác tài liệu đó phục vụ cho điều tra địa chất, tìm kiếm các mỏ”. Một công việc không kém khó khăn và mất nhiều thời gian là xây dựng hệ thống thuật ngữ Địa vật lý tiếng Việt, vừa giảng dạy ông vừa tham gia biên soạn hệ thống thuật ngữ chuyên ngành này.
Giảng dạy về Địa vật lý ở Bộ môn Địa chất chỉ có mình Ngô Văn Bưu, ngoài giảng dạy lý thuyết ông còn chuẩn bị thiết bị máy móc cho sinh viên thực tập ngay tại khu sân bóng của trường. Để sinh viên hiểu và thích thú hơn, ông còn hướng dẫn thực nghiệm trên mô hình đo điện trở suất của các miếng đồng ở bể bơi. Giai đoạn này Liên Xô giúp trường Đại học Bách khoa khá đủ các máy địa vật lý cơ bản phục vụ cho thực tập như máy thăm dò điện, từ kế quang học dùng trong thăm dò từ, phóng xạ kế cầm tay dùng để khảo sát các chất phóng xạ, không những thế còn cả máy phóng xạ có thể đặt trên ô tô con, kèm theo bộ phận liên kết với trục quay của ô tô để xác định vị trí khảo sát phóng xạ từng địa điểm khi ô tô di chuyển. Để có thể hướng dẫn sinh viên thực hành những thiết bị đó, bản thân ông trước hết phải biết sử dụng thành thạo, sau đó lên chương trình thực hành, chia từng tổ từng nhóm và hướng dẫn cho họ. Những điều ông đã học được từ các thầy giáo người Nga, ông không quản ngại khó khăn, tận tụy truyền đạt kiến thức cho sinh viên. Ông tâm niệm rằng: Thầy giáo đã hết lòng, hết sức giúp đỡ, chỉ bảo mình trong quá trình học tập thì bây giờ, đến mình cũng tận tâm với học trò. Ông nhớ về những buổi chuẩn bị hướng dẫn thực hành cho sinh viên: “Nhiều khi tôi suốt tuần cứ sáng dạy trên lớp, chiều chuẩn bị máy từ trong phòng thí nghiệm, xách ra bãi đá bóng của trường Đại học Bách khoa hướng dẫn trực tiếp cho cho sinh viên trên các máy đó, lăn lê bò xoài, cắm các tuyến để đo đạc. Thực hành xong thu dọn máy móc về, tôi lại lau chùi, bảo quản…”
Đến đào tạo những kỹ sư Địa vật lý đầu tiên
Trước tình hình Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, tháng 4-1966, trường Đại học Bách khoa sơ tán khỏi Hà Nội. Cũng trong giai đoạn này, trước những thay đổi của hoàn cảnh đất nước và yêu cầu đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ sư, Nhà trường có nhiệm vụ lên kế hoạch tách một số khoa xây dựng thành trường Đại học riêng. Trường Đại học Mỏ-Địa chất được thành lập nhằm phục vụ nhiệm đáp ứng chủ trương này. Ngày 8-8-1966, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 147/QĐ-CP thành lập trường Đại học Mỏ – Địa chất. Đến ngày 15-11-1966, trường Đại học Mỏ-Địa chất chính thức khai giảng khóa học đầu tiên tại nơi sơ tán ở Bắc Ninh. Một lần nữa, giảng viên Ngô Văn Bưu lại trở thành một trong những người đầu tiên về xây dựng trường. Tất cả những năm tháng ấy còn mới mẻ như mới hôm qua.
Bộ môn Địa vật lý của trường Đại học Mỏ-Địa chất có quyết định thành lập vào ngày 28-12-1966, sơ tán ở xóm Nghè, xã Đình Tổ, gần chùa Bút Tháp, ngay sát ven đê sông Đuống. Khi mới thành lập, Bộ môn có 7 kỹ sư về làm cán bộ giảng dạy, phần lớn vừa tốt nghiệp đại học, rất trẻ, hăng say bắt tay vào chuẩn bị giảng dạy, như: Nguyễn Văn Phơn, Mai Thanh Tân, Phạm Quang Quý, Lê Cảnh Đại… Cán bộ giảng dạy của Bộ môn sống nhờ trong nhà dân, ngay tại xóm Nghè. GS Ngô Văn Bưu cho biết người dân rất nghèo, nhưng tấm lòng rộng mở, vui lòng đón tiếp các thầy giáo trẻ. “Mặc dầu cơm không đủ ăn, lúc đó ai cũng vậy, nhưng mỗi khi đến mùa bẻ ngô ngoài bãi về gia đình đều luộc lên mời chúng tôi. Tôi ở trong nhà ông bà Mễ với các cháu Phùng, Phong, Phi (3 cô con gái) và Cò (con trai). Nhà cũng không bao giờ phải khóa cửa, cổng gì cả, thừa hưởng tinh thần Phật giáo, truyền thống hiếu học từ ngàn xưa ở đây”- GS Ngô Văn Bưu nhớ lại.
Ngay từ khi chuẩn bị thành lập trường Đại học Mỏ – Địa chất và Bộ môn Địa vật lý, Ngô Văn Bưu cùng đồng nghiệp trong Bộ môn đã góp ý kiến xây dựng mục tiêu, nội dung và chương trình đào tạo kỹ sư ngành Địa vật lý. Khóa học đầu tiên, ngành Địa vật lý có 34 sinh viên. Công việc xây dựng chương trình đào tạo ngành kỹ sư Địa vật lý được tiến hành rất công phu. Vì được đào tạo từ một trường Đại học ở Mátxcơva nên KS Ngô Văn Bưu và các đồng nghiệp đã xây dựng chương trình giảng dạy theo cách đào tạo của Liên Xô, trên cơ sở tìm sách giáo khoa của các chuyên ngành Địa vật lý có những nội dung các môn khoa học cơ bản như Toán, Lý, Hóa,… liệt kê lại, sắp xếp thành hệ thống và trao đổi với các giáo viên phụ trách các môn học đó của Trường để lập chương trình các môn học.
Hồi đó, đa số các cán bộ của trường hầu như mới bước vào nghề dạy học, sống trong thiếu thốn nhưng rất nhiệt tình, lạc quan, yêu đời, sẵn sàng trao đổi, đóng góp ý kiến xây dựng chương trình đào tạo. Ông đã trao đổi với Tổ trưởng các Bộ môn có giờ giảng dạy cho Bộ môn Địa vật lý để cùng nắm được về một ngành đào tạo kỹ sư mới của trường. Các thầy tổ trưởng thời đó như thầy Nguyễn Mỹ Quý, Lê Ngọc Lăng (Bộ môn Toán), Dư Chí Công (Bộ môn Vật lý), Kiều Dinh (Bộ môn Hóa),… cũng như các cán bộ của các Bộ môn đều mới thành lập năm 1966, còn rất trẻ, hăng say công tác nên trong hoàn cảnh chiến tranh, ăn bo bo, tối thắp đèn dầu, đi lại chủ yếu bằng xe đạp, ai cũng như nhau, vì vậy rất gần gũi, thân thiết, hỗ trợ cho nhau, vượt khó, hoàn thành mọi việc.
Bên cạnh học lý thuyết, việc thực hành phục vụ các chuyên ngành kỹ sư Địa vật lý cũng được mở rộng liên kết với các đơn vị sản xuất ở Tổng cục Địa chất. Thực tập ở các đơn vị sản xuất đó không những giúp sinh viên hiểu rõ phần lý thuyết đã học, mà thấy rõ các phương pháp Địa vật lý khi thực hiện tìm kiếm các mỏ cụ thể như thế nào, làm cho sinh viên ham thích và mong muốn đi sâu vào nghề nghiệp.
Nhớ lại những ngày tháng vất vả, GS.TSKH Ngô Văn Bưu không khỏi tự hào vì đã góp phần đào tạo được những thế hệ kỹ sư Địa vật lý trẻ đầu tiên, nhiệt tình công tác, tự học, tham gia phục vụ sản xuất, nghiên cứu khoa học. Năm 1975, Bộ môn Địa vật lý được Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng tặng lẵng hoa vì đã có những thành tích xuất sắc, đó là niềm hãnh diện của ông và các đồng nghiệp trong Bộ môn.
Bộ môn Địa vật lý đón nhận Lẵng hoa của Chủ tịch nước Tôn Đức Thắng
Phổ Yên, ngày 8-2-1975. TS Ngô Văn Bưu đứng thứ 2, từ phải sang
Bên cạnh việc xây dựng chương trình, giáo án thì việc biên soạn giáo trình giảng dạy cho sinh viên cũng hết sức cần thiết, nhất là trong hoàn cảnh trong nước chưa có một giáo trình tiếng Việt nào về Địa vật lý, ngay cả sách bằng tiếng nước ngoài cũng không có. Cuốn “Thăm dò điện một chiều” do Ngô Văn Bưu biên soạn, được dùng làm giáo trình cho sinh viên ngành Địa vật lý. Mặc dù chưa có điều kiện để in phổ biến rộng rãi do nhiều nguyên nhân, nhưng cũng là cuốn cẩm nang để ông sử dụng trong giảng dạy.
Ngoài ra, GS Ngô Văn Bưu còn tham gia biên soạn nhiều cuốn từ điển khác nhau: Từ điển Vật lí Nga-Việt (khoảng 24 000 thuật ngữ, 1978); Từ điển Bách khoa Việt Nam (4 tập, 1995-2005); Từ điển Dầu Khí Anh-Nga-Việt, Nga-Anh (khoảng 20.000 thuật ngữ, có giải thích, 2004); Từ điển giải thích Khoa học Địa chất Anh- Việt và Việt-Anh (2006); Từ điển giải thích Anh-Việt: Địa sinh thái-Địa môi trường-Địa kỹ thuật (2008)…
Cả cuộc đời gắn bó với sự nghiệp giảng dạy, GS.TSKH Ngô Văn Bưu cho rằng: Vấn đề quan trọng nhất trong đào tạo là chất lượng giáo viên, phải có đội ngũ thầy giỏi, từ đó mới có được phương hướng và chương trình đào tạo đúng đắn, nội dung môn học mang tính cơ bản, khoa học và thực tiễn. Người thầy ở đại học phải tham gia nghiên cứu khoa học đồng thời giúp cho sinh viên tiếp cận với phương pháp và công cụ nghiên cứu khoa học.
Và với sự sắp đặt do ngoại cảnh khiến GS Ngô Văn Bưu bước vào nghề dạy học, nhưng đúng là chính nghề này cũng giúp ông đeo đuổi nghiệp khoa học.
Nguyễn Thanh Hóa-Hoàng Thị Liêm
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam