Bước ngoặt trong đời

         1-Từ vùng quê đất cằn

 Giáo sư Đặng Hữu sinh ra ở làng Vĩnh Phú, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Tưởng rằng con người và đất đai nơi ở đây sẽ “giàu vĩnh viễn” như ý nghĩa của tên làng, nhưng sự thật thì trái ngược. Ông kể: “Làng tôi rất nghèo, đất khô cằn, mùa màng thất bát vì ruộng thiếu nước, đất gò thì chỉ trồng được sắn, dừa, mía. Có năm làng bị đói, nhất là những năm 1949-1950 bị mất mùa, bốn tháng liền cả nhà tôi không có hạt gạo nào, phải ăn củ mì để qua ngày”[1]. Với tình cảnh đó, người dân ở đây làm đủ mọi nghề để kiếm sống như xe chỉ, trồng mía và ép mía nấu đường bằng cối xay mía do bò kéo…cuộc sống chủ yếu tự cung, tự cấp. Kỷ niệm những ngày gian khó nhưng cũng đầy niềm vui ấy mãi in dấu trong tâm trí ông: Những đêm sáng trăng thanh niên cả thôn thường rủ nhau vừa chung tay đẩy cối xay mía, vừa “hát kết” (một thể loại dân ca nam nữ đối đáp nhau) cả đêm. Chính từ những đêm lao động vui chơi như thế mà nhiều đôi thanh niên nam nữ nên duyên vợ chồng. Còn bản thân cậu bé Đặng Hữu với quyết tâm học tập, đã hoàn thành xuất sắc chương trình tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổng thông. Và ngay sau đó, chàng trai 18 tuổi này đã vinh dự được kết nạp vào Đảng.

Năm 1950, Tỉnh ủy mở trường Bổ túc văn hóa Công – Nông do ông Nguyễn Trọng Phu là Hiệu trưởng. Trường có nhiệm vụ đào tạo, bổ túc cho các cán bộ Chi ủy có trình độ lớp 3,4,5 lên trình độ lớp 6,7. Và Đặng Hữu, khi ấy mới học xong trung học, là một trong những người được Tỉnh mời làm giáo viên. Ngoài đi dạy học, Đặng Hữu còn đi thực tế và tham gia công tác tuyên huấn ở Chi bộ xã. Trong bản nhận xét cán bộ năm 1951, ông Nguyễn Trọng Phu viết: Có triển vọng, cần được bồi dưỡng để sau này trở thành cán bộ tốt. Có thể vì thấy được năng lực, cũng như những việc mà ông đã làm nên Tỉnh ủy Bình Định cử ông ra Bắc tham dự lớp chỉnh huấn để đi học ở Trung Quốc vào cuối năm 1951. Cả tỉnh năm đó chỉ có một mình ông được cử đi học.

Cầm giấy triệu tập trên tay ông rất tự hào và sung sướng nhưng xen lẫn với cảm xúc đó là sự lo lắng vì không biết có đủ sức khỏe để ra tới Việt Bắc không? Cuộc sống sẽ như thế nào? Học gì? ở đâu?, vì :“Từ năm 1946, nhiều bạn bè của tôi cũng mơ ước, tìm đường ra Bắc học, có người đi đường biển theo ghe tầu đánh cá rồi mất giữa đường, có người đi bộ đội rồi ra Bắc học,…”[2]  

Sau khi đã giải quyết những công việc còn đang dang dở, Đặng Hữu lên Tỉnh ủy và Liên Khu ủy làm các thủ tục để đi học, bao gồm bản kiểm điểm, chuyển lý lịch Đảng,… Trong bản nhận xét, ông Phó Bí thư Thường trực Tỉnh ủy viết: “Tốt, năng động, có triển vọng, tư cách đạo đức tốt, cần đề phòng động cơ anh hùng cá nhân” [3].  

GS.TS Đặng Hữu làm việc với Nghiên cứu viên Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam

2 – Hành trình đi đến ước mơ       

Hành trang mang theo ngoài tiền đi đường do bố mẹ và họ hàng cho, anh thanh niên Đặng Hữu phải chuẩn bị ba lô, ruột nghé, tấm ni lông che mưa, tấm vải sita để đắp, hai bộ quần áo, đôi dép cao su, pi đông, hăng gô, thuốc sốt rét, sao cho gọn nhẹ    không ảnh hưởng cuộc hành trình đi bộ xuyên rừng, trèo núi  trong vòng 3-4 tháng.

Đầu tháng 11-1952, ông xuất phát từ Liên khu ủy Khu V (Hoài Ân, Bình Định). Ông đã nhập đoàn cùng 8 người ở Quảng Ngãi, 3 người ở Quảng Nam; tổng cộng cả đoàn có 12 người do Trần Đình Miên làm Trưởng đoàn.

Nhớ về chặng đường đầu tiên, GS Đặng Hữu kể: Từ địa bàn Hiên (Hiên là tên một huyện cũ thuộc miền núi ở phía Tây Bắc tỉnh Quảng Nam, giáp biên giới Lào, là điểm đầu của đường giao liên ra Bắc,  là “cửa khẩu” của Khu V) đi là vùng rừng núi trập trùng, nhiều đoạn dốc đứng phải dùng cả tay bám chắc vào rễ cây, hốc đá… để leo, trên lưng thì đeo ba lô và ruột nghé nặng trĩu. Có những con suối nước sâu chảy xiết, rất dễ bị cuốn trôi nếu không bám chắc, bên cạnh đó còn phải đối đầu với nạn vắt cắn, nhất là những hôm trời mưa. Sau mấy tháng trời đi rừng cả hai bàn chân dày đặc các vết vắt cắn.   

Trên đường đi, đoàn các ông nghỉ đêm ở các “trạm giao liên”, đó là những lán trống làm bằng tre nứa, đủ cho khoảng 15 -20 người. Có lần đoàn đi từ Bắc vào và từ Nam ra, cùng nghỉ ở một trạm, thì hai đoàn lại phải cùng chật chội nằm trong lán. Nữ được phân ở một khu vực riêng. Lán đặt ở bên bờ suối, mọi sinh hoạt như nấu cơm, tắm giặt, vệ sinh đều ở ngoài suối và trong rừng. Gặp lúc trời mưa không lấy được củi, không chỗ đun, đành phải nhịn đói, uống nước suối.  Không có màn, mỗi người chỉ có một tấm vải sita, tối ngủ đắp lên người, muỗi tha hồ cắn. 

Vất vả nhất là đoạn đường vượt núi Thiên Bút, cao khoảng 1500m. Cuộc hành trình từ 4 giờ sáng, len rừng leo núi, hết đỉnh này đến đỉnh khác, đến trưa đến đỉnh núi mây mù dày đặc và lạnh run người thì các ông dừng lại ăn cơm nắm rồi đi tiếp. Vượt qua hai ngọn núi nữa đến gần 9 giờ tối mới đến lán giao liên, hai chân ông dường như không cử động được nữa, tháo ba lô, kiểm tra vắt trên người và lăn ra sạp ngủ thiếp.  

  Khi đến khu Dương Hòa, địa phận tỉnh Thừa Thiên- nơi có dân cư và chợ, cả đoàn được nghỉ hai ngày lấy lại sức và mua thêm gạo, thịt để làm lương khô mang đi tiếp. Đoàn chia làm 4 tổ, mỗi tổ ba người. Mỗi người trong đoàn phải luôn mang trong người đủ gạo cho 7 ngày ăn ba bữa. Thức ăn có muối và đồ khô như ruốc, còn rau thì hái trong rừng như rau tàu bay.  Đến Đường 9, đoàn các ông và nhiều đoàn khác bị mắc kẹt do Pháp đang làm hành lang chuyển quân sang Lào. Thời gian chờ đợi ở đây đúng vào dịp Tết nên Đặng Hữu thấy được cái tết thời chiến của những người dân nơi đây:  “…dân mình khổ cực vô cùng. Trong nhà dân, Tết đến mà không có hạt gạo nào, tôi bèn đem một ít gạo mang theo để giúp họ” [4]

“Động lực giúp tôi vượt qua khó khăn lúc đó là ra Bắc được đi học, mong muốn được gặp Bác Hồ…”

GS. TS Đặng Hữu chia sẻ

       Sau mấy ngày, được tin địch đã rút khỏi Đường 9, đoàn của ông tiếp tục lên đường. Vì sợ địch phát hiện nên các ông đi khi trời còn tối, đường rừng mà không được dùng đèn, đuốc, người sau tiếp bước người trước. Bên cạnh những gian khổ, khó khăn có những câu chuyện vui mà khi nhắc đến trong mắt ông ánh lên niềm vui về một thời đáng nhớ. Một hôm, khi đoàn đang trên một đoạn đường thì có người phát hiện “có bao thuốc lá của Tây”, nhưng vì nghe theo dây chuyền nên không rõ, khi nghe đến chữ “Tây” là mọi người vội vã tản ra, chạy miết. Chạy được khoảng một tiếng mệt quá, lại đến sông Cam Lộ nên đoàn dừng lại. Hỏi rõ mới biết hóa ra nghe không thủng cứ tưởng có địch. Trên bờ sông Cam Lộ, ban đầu cha con ông lái đò từ chối chở qua sông vì qua giọng nói biết là người vùng khác. Nhưng khi biết là cán bộ ra Bắc học, ông gọi con trai cùng chở đoàn qua sông. Sang đến bờ bên kia, ông còn dẫn đoàn đi và gọi bà con đang ẩn náu ở trong mấy bờ bụi ra. Mỗi gia đình có một xe ba gác có mảnh cót phủ lên trên để con trẻ ngồi. Anh em trong đoàn rất ngạc nhiên và khi tìm hiểu thì được biết do nhà cửa của họ làm đi làm lại 8-9 lần nhưng đều bị Pháp đốt hết nên từ đó phải sống lang thang theo cách này. Và GS Đặng Hữu xúc động khi nhắc đến dòng chữ “Nơi đây Pháp giết hại gần trăm người trong cuộc càn” mà ông đã đọc được khi đi qua cầu Mỹ Đức. Ròng rã trong suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, dân mình đã phải chịu đựng nhiều điều kinh khủng nhưng họ vẫn phải vượt lên để sống và đấu tranh.

        Đến Thanh Hóa, ông bị sốt rét do nhiều ngày đi rừng bị muỗi và vắt cắn. Tổ của ông nghỉ lại nhà dân trong khi đoàn vẫn đi tiếp. Ông Trần Đình Miên dặn các ông nhớ tìm về T95 (Ký hiệu của Trạm).

Sau khi ông khỏi bệnh cả tổ tiếp tục hành trình. Đến Đoan Hùng các ông hỏi thăm về T95. Không ai biết chính xác T95 ở đâu, chỉ biết đến bến phà Bình Ca sẽ có hai hướng: một là đi về hướng Bắc qua thị xã Tuyên Quang rồi đi tiếp một hai ngày nữa; hai là đi theo hướng Thái Nguyên và hỏi thăm dần. Tổ của ông đi lên phía Tuyên Quang nhưng sau hai ngày lên đến nơi, các ông hỏi thăm thì không có T95. Quay trở về bến phà Bình Ca, đi về  hướng Thái Nguyên, và may mắn là khi đi đến Sơn Dương các ông gặp được T95. Mặc dù đã khá mệt nhưng đây chưa phải trạm dừng chân cuối cùng, Tại đây ông làm các thủ tục hành chính là nộp giấy giới thiệu, lí lịch, học bạ và chờ mấy đoàn nữa cùng đi. Tiếp tục đi thêm ba ngày đường nữa đoàn mới đến nơi tập trung chuẩn bị học tập.

Trong suốt hành trình khoảng 5 tháng từ Nam ra Bắc, có nhiều lần suýt chết do đi qua suối và chạy trốn sự đuổi bắt của địch nhưng trong ông luôn có động lực để vượt qua:“Động lực giúp tôi vượt qua khó khăn lúc đó là suy nghĩ ra Bắc được đi học, mong muốn được gặp Bác Hồ, chứng kiến tinh thần, phong trào và căn cứ cách mạng miền Bắc. Bởi vì, trong Nam xa, tin tức đưa vào không đầy đủ chính xác. Động lực ấy thôi thúc tôi quyết tâm: một là ra đến nơi, hai là đau ốm, mất đi cũng không sao” [5].  

Nguyện vọng được gặp Bác Hồ của ông được toại nguyện khi đang học chỉnh huấn năm 1953. Ông còn nhớ không khí chờ đón Bác thật đặc biệt hôm đó. Trời mưa to, Bác đến và hỏi thăm tình hình ăn, ở, học tập của mọi người. Những lời của Bác rất đơn giản và ngắn gọn nhưng chứa chất tình yêu thương, sự ân cần của một người cha, đã in đậm trong tâm trí ông, thôi thúc ông cố gắng học tập: Các cháu lo học tập, bây giờ kháng chiến gian khổ, nhưng sau kháng chiến thành công, xây dựng đất nước là tương lai của các cháu.

Thực hiện lời dạy đó của Bác trong suốt cuộc đời, Đặng Hữu đã phấn đấu học tập, nghiên cứu và có nhiều đóng góp khoa học, ông được coi là chuyên gia đầu ngành về lĩnh vực giao thông – đường ô tô, người đi đầu trong lĩnh vực công nghệ thông tin ở nước ta. Ở nhiều cương vị quản lý khác nhau: Hiệu trưởng trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh; Thứ trưởng Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp; Bộ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường; Trưởng ban Khoa giáo Trung ương Đảng; Ủy viên Trung ương Đảng, Đại biểu Quốc hội, GS Đặng Hữu luôn có được sự tín nhiệm và tin yêu của bạn bè, đồng nghiệp.

 

Nguyễn Thị Phương Thúy

Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam

 

 

 


[1]  Phỏng vấn GS.TS Đặng Hữu, ngày 25-5-2012

[2]  Như trên

[3]  Như trên

[4]  Như trên

[5]  Như trên