Cây đại thụ gây mê hồi sức

Năm 1954, sau khi hòa bình lập lại ở miền Bắc được 2 tháng, biết tin ở Hà Nội có trường Đại học Y, anh Nguyễn Thụ khi ấy 18 tuổi, vừa tốt nghiệp cấp 3 phổ thông, khăn gói từ huyện Can Lộc, Hà Tĩnh lên đường ra Hà Nội, mang theo khát vọng trở thành một bác sĩ. Vào thời điểm đó, Trường Đại học y Hà Nội vừa mới chuyển về từ chiến khu, chưa có kí túc xá, ông phải đi tìm nhà trọ để ở. Để có tiền vừa ăn học, vừa thuê nhà, sau giờ học ông tìm chỗ làm gia sư và xin đóng hộp thuốc cho các cơ sở sản xuất thuốc Tây. Chính những năm tháng gian khổ ấy đã rèn luyện cho ông bản lĩnh, tính tự lập và chữ “nhẫn”.

Cơ duyên đến với nghề làm GMHS vào năm thứ 5 đại học. Lúc đó, GMHS chưa có bác sĩ đảm nhận mà chỉ là công việc của những y tá phòng mổ. Bộ Y tế mời một chuyên gia GMHS của Bun-ga-ri sang giúp Đại học Y Hà Nội mở lớp đào tạo. Ông là một trong 3 sinh viên Y5 được chọn học chuyên ngành này, là một trong những người đi tiên phong khai phá miền đất còn hoang sơ của ngành GMHS. Kể từ ngày đó, sinh viên y khoa Nguyễn Thụ háo hức bước vào nghề, thắp niềm đam mê cho học trò suốt 50 năm qua.

Đưa GMHS Việt Nam ra thế giới

Ngành GMHS bước vào một trang mới từ năm 1989. Trên cương vị là Hiệu trưởng trường Đại học Y Hà Nội, GS Thụ đã có công lớn khi đưa GMHS Việt Nam gia nhập Hội GMHS của khối ASEAN, chính thức đưa GMHS bước ra thế giới. Cơ hội phát triển được rộng mở, nhưng cũng đặt ra nhiều thử thách khi mà “gia sản” GMHS nước ta lúc bấy giờ quá lạc hậu.

GS Nguyễn Thụ

Những năm 90 của thế kỉ trước, trình độ phẫu thuật được nâng cao do đầu tư mạnh mẽ. Nếu GMHS không tiến kịp thì rất khó thúc đẩy ngoại khoa phát triển, đặc biệt những ca phẫu thuật lớn, thời gian mổ 7-8 giờ như phẫu thuật lồng ngực có máy tim phổi nhân tạo. Năm 1993, trên cương vị Hiệu trưởng Đại học Y Hà Nội kiêm Trưởng khoa GMHS Bệnh viện Việt Đức, ông quyết định thành lập Bộ môn GMHS, tách từ Bộ môn Ngoại. Bệnh viện Việt Đức cũng đầu tư mạnh mẽ cho GMHS về thiết bị, thuốc, đào tạo chuyên ngành. GS Thụ nói rằng, trước đây bác sĩ GMHS của ta đi học nước ngoài thấy cái gì cũng lạ, cũng mới, nhưng bây giờ thì đã rất khác, ngay cả những nước có nền y học phát triển như Pháp thì GMHS của ta cũng đạt 80% so với họ.

Người giữ linh hồn trong từng ca mổ

GS Thụ chăm chú đọc đi đọc lại rồi đánh dấu, tỉ mỉ, sửa từng con chữ trên từng trang luận văn của học trò, say sưa như chính công trình nghiên cứu của mình… Nửa thế kỉ qua, ông làm người “gieo hạt” cần mẫn như thế cho chuyên ngành Gây mê hồi sức.

Ông bảo, nghề GMHS thật đặc biệt, bởi thành công luôn thuộc về người khác, còn rủi ro lại thuộc về mình. Đối với phẫu thuật viên có ca nặng, ca nhẹ, nhưng người làm GMHS thì không có khái niệm “nặng, nhẹ” mà mức độ nguy hiểm như nhau. Duy trì sự sống cho người bệnh suốt quá trình mổ chỉ mới đi được nửa chặng đường, bởi còn đó trọng trách hồi sức sau mổ. Lúc này tính mạng của người bệnh như một sợi tơ, chỉ cần một cơn gió nhẹ thổi qua cũng có thể đứt. Cái khổ, cái khó của nghề GMHS cũng khiến nhiều bạn trẻ không dám lựa chọn. Trong khi đây lại là công việc đòi hỏi kiến thức toàn diện và sự nhạy cảm với từng ca phẫu thuật. Đây cũng là trăn trở của G.S Nguyễn Thụ đối với ngành, bởi cho đến nay người làm GMHS vẫn chưa được đánh giá xứng đáng, mặc dù trong mỗi ca phẫu thuật họ là người giữ linh hồn cho người bệnh.

Phần thưởng lớn nhất là sự trưởng thành của học trò

Suốt nửa thế kỉ miệt mài “gieo hạt”, “vun trồng”, phần thưởng lớn nhất của ông chính là sự trưởng thành của học trò. Gương mặt ông ngời sáng, niềm hãnh diện của ông không chỉ dành tình cảm yêu thương của một người thầy, người đồng nghiệp mà còn trân trọng họ như những viên ngọc quý của ngành.

Học trò là phần thưởng lớn nhất của sự nghiệp, còn gia đình là may mắn lớn nhất trong cuộc đời ông. Ông bảo: “Tôi có bao nhiêu học trò, nhưng con cái lại một tay vợ tôi dạy dỗ, chăm sóc nên người…Nhiều lúc cũng muốn đưa bà ấy đi xem phim, đi chơi nhưng tôi toàn thất hứa, cứ ngồi vào bàn làm việc là không dứt đi được, ngay cả việc đọc sách văn học tôi cũng ít khi tự làm mà toàn bà ấy đọc rồi kể lại cho tôi nghe…”. Bây giờ khi ông đã về hưu, nhà có 2 vợ chồng già, nhưng đến bữa cơm bà giáo xứ Nghệ vẫn kiên nhẫn đợi chồng rời phòng làm việc. Nhìn cách bà giáo xứ Nghệ chăm sóc người bạn đời của mình tôi càng hiểu vì sao ông có được niềm đam mê và thành công như thế, bởi điểm tựa sau lưng ông là tổ ấm gia đình.

Lê Hảo

Nguồn: This entry was posted in Ký ức nhà khoa học. Bookmark the permalink.