Chung một con đường

PGS.TS Lê Thị Phái sinh ngày 2-2-1940 quê gốc ở Thiệu Trị, Thiệu Hóa, Thanh Hóa, trong một gia đình nhà giáo. Tốt nghiệp Đại học, chuyên ngành Hóa học tại Rumani năm 1962, bà được phân công về giảng dạy tại Khoa Công nghệ Hóa học, trường Đại học Bách khoa.

Cùng năm đó, Trần Vĩnh Diệu, sau khi tốt nghiệp Đại học Công nghệ Hóa học Menđêlêép, Mátxcơva, Liên Xô (1959-1962) cũng được phân công về Khoa Công nghệ Hóa học, trường Đại học Bách khoa công tác. Hai ông bà quen biết nhau từ đó.

Từ cùng chí hướng…

Ngoài những trao đổi về chuyên môn trong quá trình công tác tại Khoa, tình cờ một vài lần ông nói chuyện với bà ở Khu nhà tập thể cấp bốn của trường, sau những giờ làm việc. Chỉ qua những lần trò chuyện ấy khiến KS Trần Vĩnh Diệu tìm được người đồng nghiệp, cùng chí hướng với mình. Bản thân ông luôn tâm niệm phải theo một khuôn phép nhất định nhưng trong suy nghĩ sâu xa, ông vẫn muốn có một sự tự do được làm những gì mình ham thích trong chuyên môn cũng như trong đời sống tinh thần và ông biết, ở trong tâm khảm bà Phái cũng có suy nghĩ như vậy. Ngoài ra ông còn ấn tượng ở bà là một người có đời sống nội tâm sâu sắc, chuyên môn giỏi, ham đọc sách và ứng xử khá sâu sắc.

Hồi đó, ông có một chiếc xe đạp, bà lại không có xe nên cứ thứ bảy lại "cắt cơm, bơm xe" để đưa bà đi chơi. Bà Phái rất thích tiết trời mùa thu Hà Nội, thỉnh thoảng hai ông bà đạp xe dạo quanh những con phố còn mờ sương để thưởng ngoạn tiết trời se lạnh và mùi hoa sữa nồng nàn khuyến dũ . 

Tình cảm của ông là lớn dần lên và sâu sắc hơn khi năm 1963, Trường có đợt đi lao động thực tế ở nông thôn trong thời gian một tháng ở Lý Nhân, Hà Nam. Ông bà được phân cùng một tổ ở 2 gia đình nông dân gần nhau. Hồi đó không phải hộ gia đình nào cũng có giếng nước, phải gánh nước từ giếng làng về nấu ăn, giặt quần áo thì lấy nước ao. Bà Phái học từ Rumani về chưa quen cuộc sống sinh hoạt như vậy nên được ông quan tâm, chăm sóc hơn.

…đến duyên vợ chồng

 Sau 2 năm quen nhau, ông bà chọn ngày mùng Một tháng Giêng năm 1965 tổ chức đám cưới. Lúc đó gia đình cả hai bên nghèo, ông đi vay được 200 đồng, để ra 120 đồng sắm chiếc giường 1m2, một tủ nhỏ và một bếp dầu, còn 80 đồng thì để tổ chức đám cưới, mua ít bánh kẹo để tiếp khách.

Đám cưới đơn sơ của ông bà được tổ chức ở ngay tại phòng ở tập thể Tân Mai do trường cấp. Có những vị khách là người thân với gia đình ông như vợ chồng ông Hoàng Đình Phú [1], ông Hoàng Xuân Tùy[2] buổi chiều đến chúc mừng thì đám cưới đã xong từ sáng.

Với mức lương của hai ông bà cộng lại được 120 đồng, chỉ tùng tiệm so với mức sống chung của thời đó. Khi KS Trần Vĩnh Diệu được cử sang Liên Xô làm luận án Phó Tiến sĩ, đề tài "Nghiên cứu động học và cơ chế phản ứng của monoepoxy dixyclopentadien với monocacboxylic axit”, bà Phái ở nhà "vượt cạn" đứa con trai đầu lòng, lúc gần sinh thì bị ngất, may mà cả mẹ và con đều an toàn. Sau đó, bà cùng nhà trường phải sơ tán lên Lạng Sơn do chiến tranh chống Mỹ. Vật dụng mang theo chỉ gói gọn trong một túi du lịch nhỏ với vài bộ quần áo; một chiếc phích lít rưỡi; mấy đồ dùng sinh hoạt như bát sứ, đũa…; tiền dự trữ cũng không có. Bà Phái thiếu sữa nuôi con, cứ một hai tháng ông chắt chiu, tiết kiệm tiền học bổng (80 rúp) để mua hộp sữa bột gửi về cho con. Vừa phải tập trung vào thực hiện đề tài luận án, vừa lo lắng cho gia đình ở trong nước, có những lúc KS Trần Vĩnh Diệu cảm thấy mất thăng bằng, sức khỏe không tốt. Có những thời kỳ ông bị suy nhược, không thể ngồi dưới ánh đèn nêông 30 phút mà có tiếng ồn. Đôi khi ông bị mất ngủ cả tháng, nhưng nhờ sự động viên của thầy hướng dẫn, bạn bè đồng học và nhất là những lá thư của bà Phái, đã giúp ông lấy lại động lực để hoàn thành luận án.

Bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sĩ năm 1969, PTS Trần Vĩnh Diệu về nước, giữ cương vị Chủ nhiệm Bộ môn Cao phân tử, Khoa Công nghệ Hóa học, trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Ngày gia đình đoàn tụ chưa được bao lâu thì đã phải xa cách. Cũng năm đó KS Lê Thị Phái được cử sang Rumani làm luận án Phó Tiến sĩ trong thời gian 3 năm. Ông ở nhà vừa làm việc, vừa nuôi con. Không khéo trong chuyện bếp núc, con cái nên ông cảm thấy công việc chăm con quả là khó khăn. Nhưng ông cũng thực hiện tốt vai trò của một người cha chăm sóc con khi mẹ vắng nhà khi con trai ông không chịu ăn cơm tập thể.

Đồng hành trong nghiên cứu khoa học

Trong quá trình công tác, GS Trần Vĩnh Diệu và PGS.TS Lê Thị Phái kết hợp thực hiện nhiều công trình nghiên cứu khác nhau. 

Công trình nghiên cứu đầu tiên hai ông bà thực hiện và cũng là một trong nhiều công trình nghiên cứu mà GS Trần Vĩnh Diệu tâm đắc nhất, đó là triển khai đề tài "Nghiên cứu công thức keo kết cấu từ nhựa epoxy dian và công nghệ dán các loại đá quý phục vụ công trình Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh". Hình ảnh Lá cờ Đảng và Quốc kỳ được ghép bằng những tấm đá với diện tích 30m2 được hoàn thiện trước ngày Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước 30-4-1975 như chứng minh thành quả lao động khoa học của ông bà. Đây cũng là cơ sở để PTS Trần Vĩnh Diệu bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ, đề tài "Nghiên cứu trong lĩnh vực tổng hợp và ứng dụng các polyme trên cơ sở laccol” (Laccol là cấu tử chính của sơn tự nhiên Việt Nam-sơn ta) tại trường Công nghệ hóa học Menđêlêép, Mátxcơva, Liên Xô, năm 1982. Ông tâm niệm: Trong thành quả nghiên cứu khoa học của ông, đều có một phần công lao, sức lực của bà.

Những kết quả nghiên cứu về sơn ta cũng được bà Phái áp dụng ở Việt Nam, đặc biệt là ở các tỉnh Thái Bình, Hà Nam Ninh. Hồi đó các thiết bị kim loại ngoài trời chỉ có thép đen, phải dùng sơn epoxy để sơn bảo vệ. Là phụ nữ nhưng bà cũng rất xông pha, có khi mặc quần áo bảo hộ, vào các xưởng xem công nhân làm thế nào. Ông nhớ: Năm 1979, ông ở Liên Xô nghỉ phép về nước, đã giáp Tết mà bà vẫn đang thực hiện công đoạn sơn công trình chưa về. Đến 10h đêm 29 Tết, xe ở dưới Hà Nam Ninh chở bà về Hà Nội, bà cầm theo 2kg gạo nếp, mấy chai rượu mơ mật ong, nửa cân thịt về, cả nhà cùng chung vui ăn Tết.

Hai ông bà còn đồng hành trong công trình nghiên cứu về sợi thực vật (sợi tre, sợi đay) với sản phẩm ra đời là ghế ngồi cho trẻ em. Công trình nghiên cứu cuối cùng hai ông bà cùng nhau thực hiện là Ứng dụng Sợi đay trong Compozit, độ bền va đập tăng lên gấp 4 lần. Ngoài ra, đề tài nghiên cứu độc lập cấp Nhà nước: "Nghiên cứu nâng cao quy trình khô của sơn ta" do PGS.TS Lê Thị Phái làm Chủ nhiệm có ý nghĩa rất quan trọng đối với nghệ thuật tranh sơn mài trong điều kiện khí hậu nóng ẩm của Việt Nam.

Cùng nhau công tác tại trường Đại học bách khoa từ năm 1962, PGS.TS Lê Thị Phái tham gia các nghiên cứu khoa học cùng GS Trần Vĩnh Diệu cho đến khi bà phải nghỉ ngơi chữa căn bệnh hiểm nghèo. "Năm 2004, bà nhà tôi bị mắc bệnh ung thư tủy xương, chữa trị rất nhiều nơi nhưng cũng chỉ được 4 năm thì qua đời ngày 6-12-2008. Tôi vẫn nhớ như in trước đó một ngày, tôi đưa vợ từ Bệnh viện Hữu nghị về nhà vì biết không cứu chữa được, bà vẫn tỏ ra vui vẻ. Như thường lệ, sáng thứ 2 tôi lên cơ quan, chưa kịp xuống xe, thì được tin bà gọi về. Tôi quay về nhà ngay, đến trưa tôi cũng bị sốt và đau bụng. Thế mà bà nhà tôi lại bảo học trò sang chăm sóc cho tôi. Thế mới biết chúng tôi luôn dành tình cảm sâu đậm cho nhau"– GS.TSKH Trần Vĩnh Diệu rưng rưng khi hồi tưởng lại.

Mất đi người vợ, người đồng nghiệp luôn đồng hành với mình suốt một chặng đường hơn 40 năm, GS.TSKH Trần Vĩnh Diệu không khỏi hụt hẫng. Nhưng những ký ức về những ngày tháng cùng nhau khắc phục khó khăn khi xa cách, cùng nhau nghiên cứu nhiều đề tài khoa học sẽ mãi không phai mờ trong tâm trí ông.

 Hoàng Thị Liêm

________________

[1] GS Hoàng Đình Phú, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường

[2] GS Hoàng Xuân Tùy-Hiệu trưởng trường Đại học Bách khoa Hà Nội