Chuyện vợ chồng Đào học giả biên soạn từ điển

Ý tưởng làm từ điển

Bộ Hán-Việt từ điển được xuất bản năm 1932 và bộ Pháp-Việt từ điển, xuất bản năm 1936 của Đào Duy Anh là những cuốn từ điển hiện đại đầu tiên của nền khoa học xã hội Việt Nam. Các nhà nghiên cứu đã đánh giá rất cao hai cuốn từ điển này và xem đó như là “cơ sở cho nền từ điển học hiện đại Việt Nam” [1]. Nhưng ít ai biết rằng, người đưa ra ý tưởng biên soạn những bộ từ điển này không phải là tác giả đứng tên mà lại là vợ của ông – bà Trần Thị Như Mân.

Trong cuốn hồi ký “Sống với tình thương”, bà Trần Thị Như Mân viết về việc đưa ra ý tưởng biên soạn từ điển: “Nhân đọc lại các cuốn sách của Quan Hải tùng thư, tôi thấy cuốn nào cũng phải để mấy trang ở cuối giải thích các danh từ mới, phần lớn là những từ Hán-Việt về khoa học và chính trị. Tôi bèn đưa việc này với anh Anh, gợi ý anh nên tập hợp những từ Hán-Việt lại, rồi giải thích như một cuốn từ điển giúp cho người đọc tra cứu dễ dàng. Anh Anh thấy ý kiến đó hay và cho rằng có thể làm được, vả lại loại sách đó in ra sẽ không bị cản trở như những sách chính trị. Anh bắt tay làm ngay và phân công cho tôi làm một số việc” [2].

Từ điển Hán-Việt

Khi có ý tưởng, hai ông bà đã tiến hành phân công việc biên soạn cuốn từ điển Hán-Việt: bà thì đọc và tìm, ghi lại các từ mới, còn ông thì sẽ đảm nhiệm việc viết giải thích nghĩa cho các từ. Công việc này được bà Mân ghi lại: “Trước hết, anh giao cho tôi sắp xếp lại những tài liệu đã có. May mắn hồi bị bắt, những bộ phích ghi chú những danh từ khó của anh Anh đã làm trước không bị tịch thu cùng các loại sách chính trị. Sau khi ra tù thì chúng tôi thu thập lại, nay chấn chỉnh và bổ sung thêm. Anh còn phân cho tôi soát lại những sách và tạp chí quốc văn quan trọng mà số lượng hồi đó không nhiều lắm, để lọc ra những từ Hán-Việt thường dùng. Anh bảo tôi hàng ngày phải đọc lại Truyện Kiều, Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm khúc, Nam Phong toàn tập… trích những từ Hán-Việt ra, ghi vào phích. Còn anh thì gửi thư cho bạn bè và những nhà sách quen ở Hà Nội, Sài Gòn, nhờ tìm mua các loại từ điển cũ mới chi cũng được, để tham khảo. Từ các nơi gởi về, chúng tôi nhận được các bộ Từ nguyên, Từ hải, Khang Hy từ điển, Trung Quốc quốc ngữ đại từ điển, Vương Vân Ngữ từ điển, Bạch thoại từ điển…

Tất cả những từ Hán-Việt tôi lặt ra đều được ghi vào phích, sau xếp theo thứ tự ABC, rồi đưa cho anh Anh coi. Sau khi anh bổ sung rồi, tôi chép ra giấy, mỗi từ cách nhau ba dòng để anh giải thích. Chữ anh viết rất khó đọc, chỉ mình tôi vì đọc nhiều nên quen có thể đoán ra được… Ban ngày tôi bận cửa hàng, đến 9 giờ tối đóng cửa thì tôi mới bắt vào công việc ghi chép. Làm việc đến 11 giờ thì tắt đèn. Ngày nào cũng đều như rứa, ít có thay đổi. Chỉ có tối thứ bảy và chủ nhật mới nghỉ ngơi để đi thăm bạn bè và giải trí”[3].

Đầu những năm 1930, là quãng thời gian gia đình Đào Duy Anh gặp nhiều khó khăn, bà Mân vừa lo trông nom hiệu sách Vân Hòa – một trong những hiệu sách lớn nhất ở Huế thời đó – vừa lo buôn bán thêm để chăm lo cho gia đình. Đào Duy Anh vừa đi dạy học, vừa tập trung cho việc biên soạn từ điển. Không khí làm việc trong gia đình rất sôi nổi: “Anh Anh cũng vậy, ngoài thời gian đi dạy, về đến nhà là ngồi vô bàn làm việc ngay. Khi anh làm việc là không ai được quấy rầy, cả nhà ai cũng giữ yên lặng, không dám làm ồn, nhất là các chú em… Anh tự đặt kỷ luật mỗi ngày phải làm xong mấy chữ mới được nghỉ, sau đó mới đi chơi hay làm việc khác”[4].

Trong quá trình biên soạn từ điển Hán-Việt, sau khi viết giải thích xong các từ Đào Duy Anh thường trao đổi và tranh thủ ý kiến thẩm định từ nhiều người. Một trong những người mà ông thường xin ý kiến thẩm định lại là cụ Phan Bội Châu – khi ấy đang bị giam lỏng ở Bến Ngự: “Cứ xong được một tập, tôi phải chép lại rồi bảo mấy chú em, khi thì chú Kỳ, khi thì chú Dếnh, đạp xe đưa lên nhà cụ Phan Bội Châu ở Bến Ngự xem”[5].

Đại gia đình GS Đào Duy Anh giữa những năm 1980

Đến lúc in ấn thì gặp khó khăn về tài chính. Thời điểm đầu những năm 30 của thế kỷ XX, việc in ấn sách chính trị bị kiểm duyệt khá gay gắt nhưng việc in ấn từ điển lại có phần dễ dàng hơn. Tuy nhiên, kinh phí để in một bộ từ điển khá tốn kém, trong hồi ký, bà Mân ghi: “Lúc đó chúng tôi không có vốn, muốn in phải có tiền mua giấy và đặt trước cho nhà in. Anh Anh nhờ cụ Phan viết cho lời đề từ, ký tên Hãn Mạn tử. Rồi anh viết lời giới thiệu cuốn từ điển sắp ra để kêu gọi người đọc hãy đặt trước tiền mua, mỗi quyển là một đồng, giúp cho tác giả có đủ vốn in sách”[6]. Vì lần đầu biên soạn và xuất bản nên độc giả chưa được tiếp cận với một loại hình mới và chưa hiểu hết ý nghĩa của cuốn từ điển này, nên việc huy động tiền để in từ những người đặt mua không được bao nhiêu. Vì thế, bà Mân phải đi vay mượn thêm bạn bè để có đủ kinh phí hoàn thành công việc in ấn. Bộ Từ điển gồm hai quyển: quyển Thượng và quyển Hạ. Khi in quyển Thượng gặp khó khăn về vấn đề kinh phí, nhưng sau khi quyển Thượng ra đời, sách được nhiều người quan tâm và đặt mua nên tài chính có phần thuận lợi hơn khi in quyển Hạ. Năm 1932, bộ Hán-Việt từ điển được hoàn thành và ra mắt bạn đọc, đây cũng là sự kiện quan trọng cho nền từ điển học hiện đại Việt Nam.

Pháp-Việt từ điển

Bộ Hán-Việt từ điển khi xuất bản được nhiều người quan tâm và thành công đã vượt ra ngoài sự mong đợi của tác giả. Trong khi đó, thời điểm này nhiều nguồn tài liệu quan trọng vẫn lưu hành bằng tiếng Pháp và đây cũng là nguyên nhân nữa để Đào Duy Anh tiếp tục biên soạn bộ Pháp-Việt từ điển. “Sau khi làm xong Hán-Việt từ điển, anh Anh muốn tiếp tục làm quyển Pháp-Việt từ điển. Lúc này cửa hàng của tôi đã có liên hệ thường xuyên với các nhà sách bên Pháp nên tôi nhờ mua một bộ Larousse du XXe . Dựa trên bộ này, anh Anh đã lấy từ để dịch nghĩa thành bộ Từ điển Pháp-Việt”[7]. Có thể nói, để hoàn thành công trình này, hai ông bà đã sử dụng rất nhiều nguồn tài liệu khác nhau để tham khảo: “Tôi còn gởi thư sang Thượng Hải đặt mua bộ Hán-Anh-Pháp-Ý-Đức từ điển. Ngoài ra còn phải tìm các loại từ điển song ngữ Việt-Pháp, Pháp-Việt, Pháp-Hoa, Anh-Hoa, Hoa-Pháp, Hoa-Anh, Pháp-Hoà (Pháp-Nhật). Tất cả đến mấy chục bộ để dùng làm sách tham khảo”[8]. Khi làm bộ Từ điển Pháp-Việt, do tài liệu tham khảo thuận lợi hơn trước nên công việc dễ dàng hơn. Để có kinh phí in ấn, ông bà vẫn dùng cách kêu gọi người mua đặt tiền trước. Năm 1936, bộ từ điển Pháp-Việt hoàn thành. Bộ từ điển này có nhiều nét đặc biệt, như Giáo sư Đào Thế Tuấn đánh giá về công trình của cha ông: “Đây là một bộ từ điển Pháp-Việt, nhưng nó có phần giải thích cả bằng tiếng Hán để cho những người biết tiếng Hán cũng có thể tra cứu được. Vậy nên có thể gọi đây là bộ Pháp-Việt-Hán từ điển”[9].

Như vậy, trong nửa đầu những năm 30, Đào Duy Anh đã lần lượt hoàn thành hai bộ Từ điển Hán-Việt và Pháp-Việt, là những công trình có ý nghĩa quan trọng đối với khoa học xã hội Việt Nam. Để làm được điều này, bên cạnh những tâm huyết, nỗ lực với tinh thần khoa học của Đào Duy Anh, cũng phải kể đến những đóng góp cần mẫn của bà Trần Thị Như Mân trong việc soạn thảo, tìm từ…, chưa kể là người đưa ra ý tưởng ban đầu. Và như Giáo sư Đào Thế Tuấn đã nói: “Mọi thành công của cha tôi – Đào Duy Anh đều có hình bóng của mẹ tôi, Trần Thị Như Mân”[10].

 Bùi Minh Hào

[1]: http://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A0o_Duy_Anh.

[2], [3], [4], [5], [6], [7], [8]: Hồi ký “Sống với tình thương”. Trần Thị Như Mân. Thanh niên, 2007.

[9], [10]: Phỏng vấn GS.VS Đào Thế Tuấn ngày 09-2-2009, tài liệu lưu tại Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam.