Công trình Bản đồ đất

Công trình Bản đồ đất toàn Việt Nam thống nhất tỉ lệ 1 trên 1.000.000 hoàn thành năm 1977 trở thành bản đồ đất quốc gia chính thức, có ý nghĩa quan trọng phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Năm 2000, công trình được nhận giải thưởng Hồ Chí Minh đợt II.

Sau năm 1954, hòa bình được lập lại trên toàn miền Bắc Việt Nam. Trong công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, Chính phủ ta bắt đầu mở mang nhiều nông trường quốc doanh, khu kinh tế mới; đồng thời phục hoang, phục hóa một loạt diện tích đất đai sau chiến tranh. Xây dựng một hệ thống phân loại và bản đồ đất là một yêu cầu cấp bách làm cơ sở hoạch định để thực hiện những chủ trương trên. Tuy nhiên, trong gần 80 năm Pháp thuộc, vấn đề này hầu như không được quan tâm ở nước ta… Trong Viện Đại học Đông Dương của Pháp thời kỳ này cũng không có khoa, ngành nào đào tạo chuyên sâu về vấn đề đất đai. Vì thế sau khi hòa bình lập lại, nước ta rất thiếu cán bộ thổ nhưỡng.

Bấy giờ, Liên Xô là một trong những nước đứng đầu thế giới trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học đất. Cuối năm 1957, ông Fridland – một chuyên gia hàng đầu về thổ nhưỡng được Liên Xô cử sang giúp đỡ nước ta tiến hành công tác khảo sát và xây dựng bản đồ đất. Đây chính là bản Chương trình công tác giúp lập bản đồ đất miền Bắc Việt Nam của ông Fridland từ ngày 1 tháng 4 đến ngày 15 tháng 11 năm 1958. Trong trí nhớ của các thành viên tham gia, chuyên gia Fridland là một người rất giỏi chuyên môn, nghiêm khắc trong công việc nhưng ngoài giờ làm, ông Fridland là một người hòa đồng, nhiệt tình, đặc biệt quý mến các cán bộ Việt Nam.

Theo chỉ đạo của Chính phủ Việt Nam, Bộ Nông Lâm đã giao cho Viện Khảo cứu trồng trọt là cơ quan điều hành công tác khảo sát đất, đồng thời cử một số cán bộ làm việc trực tiếp với chuyên gia Fridland, trong đó có kỹ sư Lê Duy Thước, khi đó là Viện trưởng Viện Khảo cứu trồng trọt, từng có thời gian thực tập chuyên môn nâng cao ở Liên Xô và kỹ sư Vũ Ngọc Tuyên, khi đó là Trưởng phòng tuyên truyền của Bộ Nông Lâm. Sau khi bàn bạc, thảo luận theo sự hướng dẫn của chuyên gia Liên Xô, một đoàn cán bộ điều tra khảo sát đất đã được thành lập, do kỹ sư Vũ Ngọc Tuyên là trưởng đoàn đồng thời lựa chọn thêm một số cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc và cán bộ tốt nghiệp trường trung cấp Nông Lâm trung ương tham gia thực hiện.

Kỹ sư Trần Khải được đào tạo bài bản về chuyên ngành thổ nhưỡng tại trường Đại học Nông nghiệp Hoa Nam, Trung Quốc, và có nhiều kinh nghiệm thực tế khảo sát cùng với các chuyên gia tại nhiều vùng miền như Quảng Đông, Hồ Nam, Hải Nam… Vì thế, ngay khi về nước vào năm 1958, ông và ba kỹ sư chuyên ngành Thổ nhưỡng nông hóa tốt nghiệp ở nước ngoài về là kỹ sư Đỗ Ánh, kỹ sư Nguyễn Vy, kỹ sư Tôn Gia Huyên, đã được Bộ Nông Lâm cử về công tác tại Viện Khảo cứu trồng trọt, và bổ sung ngay vào đoàn điều tra khảo sát đất cùng làm việc với chuyên gia Fridland. Năm 1962, sau khi tốt nghiệp ngành Thổ nhưỡng nông hóa, Học viện Nông Lâm, kỹ sư Đỗ Đình Thuận được Bộ Nông nghiệp cử về công tác tại Vụ Quản lý ruộng đất, được bổ sung ngay vào đoàn điều tra, lập bản đồ đất tại tỉnh Thái Nguyên, tỉ lệ xích 1trên 50.000. Là sinh viên mới ra trường, ông rất hào hứng, nhiệt thành với công việc, không nề hà khó khăn, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ chuyên môn mà cấp trên yêu cầu.

Trong hoàn cảnh phần lớn cán bộ nước ta thiếu kiến thức chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn, Trần Khải được phân công chịu trách nhiệm toàn bộ các vấn đề khoa học kỹ thuật, tham gia giám sát, kiểm tra công tác điều tra, khảo sát đất cùng với chuyên gia Fridland. Ông cũng tham gia phụ trách các lớp huấn luyện, trang bị kiến thức cho các cán bộ và sinh viên trong đoàn khảo sát đất. Bấy giờ, Bộ Nông Lâm phải liên hệ với Cục Đo đạc bản đồ nhà nước và quân đội, xin bản đồ quân sự về tham khảo, phục vụ cho quá trình làm bản đồ thổ nhưỡng. 

Ngay trong năm 1958, nhóm nghiên cứu đã tiến hành nhiều chuyến khảo sát lấy mẫu đất trên khắp miền Bắc để nghiên cứu các điều kiện hình thành thổ nhưỡng. Cuộc hành trình với tổng chiều dài đường đi hơn 10.000km ấy đã thu thập được những số liệu quan trọng. Sau một số chuyến khảo sát ban đầu, đồng thời với việc nghiên cứu các mẫu đất, nhóm cũng tổ chức những điểm nghiên cứu tại chỗ ở một số nơi, để tìm hiểu về chế độ nhiệt và nước trong đất.

Hàng ngày, theo phân công của chuyên gia, đoàn cán bộ khảo sát đất chia thành từng nhóm nhỏ, đi khảo sát ở các địa điểm khác nhau. Sau giờ ăn tối, mọi người nhóm họp lại, kiểm tra lại tất cả các mẫu đất đã thu lượm (được lấy theo quy định trong độ sâu từ 0 đến 120 centimet. Nếu đất chia thành nhiều tầng, thì mỗi tầng phải lấy một mẫu đất, đưa vào hộp bìa). Mỗi mẫu đất khi kiểm tra bắt buộc phải có bản mô tả chi tiết về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội, địa hình, địa chất, địa mạo, khả năng canh tác… và được xác định đúng tọa độ địa lý trên bản đồ dã ngoại.

Hành trang của cán bộ thổ nhưỡng khi đi thực địa gồm nhiều đồ đạc, trong đó bắt buộc phải có các mũi khoan và công cụ đào đất, lấy mẫu đất… kèm theo một số vật dụng như mũ, nón, áo mưa, bản đồ, túi đựng mẫu đất, hộp đựng tiêu bản, hòm đựng hóa chất để thử tính chất hóa lý của đất… Lúc về, trên vai cán bộ thổ nhưỡng có thêm những mẫu đất và tiêu bản thực địa. Có khi một tổ phải gánh 20 ki lô gam hành lý, đi bộ nhiều cây số để về đến lán trại. Tại mỗi địa điểm, nhóm phải tập hợp nhiều mẫu đất ở các địa hình khác nhau nên có lúc phải leo núi rồi lại lội suối. Dù vậy, với quyết tâm hoàn thành công việc, các thành viên đoàn đều hăng hái, nhiệt tình.

Cuối năm 1958, dưới sự hướng dẫn của chuyên gia Fridland và sự chỉ đạo của Bộ Nông Lâm, đoàn khảo sát đã sơ bộ hoàn thành công tác điều tra, phân loại đất các vùng miền phía Bắc Việt Nam và lập bản sơ đồ thổ nhưỡng tỉ lệ 1 trên 1.000.000.

Theo Giáo sư Lê Duy Thước đánh giá: Việc xây dựng được Sơ đồ thổ nhưỡng miền Bắc Việt Nam tỉ lệ 1 trên 1000.000 đã đánh dấu một bước đột phá của lĩnh vực thổ nhưỡng nông hóa ở Việt Nam. Từ đó làm cơ sở cho những bản đồ thổ nhưỡng mới tỉ lệ lớn hơn, như bản đồ tỉnh Hà Đông, tỉ lệ 1 trên 50.000; các nông trường vùng Phủ Quỳ, Tây Hiếu, Nghệ An tỉ lệ 1 trên 25.000; nông trường Thắng Lợi, Thanh Hóa tỉ lệ 1 trên 10.000; Học viện Nông lâm Hà Nội, Trại chè Phú Hộ tỉ lệ 1 trên 5.000… Và từ năm 1962 đến 1972, một cao trào điều tra xây dựng bản đồ thổ nhưỡng ở các tỉnh diễn ra dưới sự hướng dẫn kỹ thuật của phòng Thổ nhưỡng, Vụ Quản lý ruộng đất, Bộ Nông nghiệp.

Đặc biệt, tờ sơ đồ thổ nhưỡng miền Bắc tỉ lệ 1 trên 1000.000 là cơ sở để tiến hành lập bản đồ thổ nhưỡng miền Bắc 1 trên 500.000, bản đồ đất Việt Nam tỉ lệ 1 trên 1.000.000… Đây là một giai đoạn quan trọng của công trình Điều tra – Phân loại – Lập bản đồ đất Việt Nam. Trong suốt thời gian này, do trình độ chuyên môn và kinh nghiệm còn hạn chế nên hầu như toàn bộ đoàn khảo sát đều tuân thủ theo chỉ đạo của chuyên gia Liên Xô. Mọi kinh nghiệm, những cuộc trao đổi với chuyên gia đều được các thành viên trong đoàn ghi chép rất cẩn thận. Ở đây chúng tôi xin giới thiệu với quý vị cuốn sổ ghi chép các cuộc họp với chuyên gia Liên Xô về tổ chức Ban công tác bản đồ đất, 1958 của Giáo sư Lê Duy Thước.

Năm 1959, ông Trần Khải được phân công làm Phó đoàn điều tra đất, chịu trách nhiệm dẫn một đoàn điều tra đất về khảo sát tại các nông trường ở vùng Phủ Quỳ, Nghĩa Đàn, Nghệ An. Một lần khi đang khảo sát tại một quả đồi cao đất đỏ bazan đã khai hoang, ông đột nhiên phát hiện thấy một hiện tượng lạ lùng, đó là địa hình gồm những đá ong rất to nằm lộ trên mặt đất, tạo thành một vành đai giữa đồi. Mặc dù chưa thể lý giải được ngay hiện tượng này, nhưng ông vẫn mô tả chi tiết trong bản đồ. Khi tiến hành kiểm tra các địa điểm khảo sát theo định kỳ hàng tháng, chuyên gia Fridland cho rằng ông Khải viết sai và yêu cầu đến thực địa kiểm tra. Ngay sáng hôm sau, mọi người dậy sớm, chuẩn bị hành trang lên đường. Vì địa hình hiểm trở, ô tô không di chuyển được nên đoàn phải đi bộ. Dọc đường, ông Lê Duy Thước quay sang bày tỏ sự nghi vấn và lo lắng với Trần Khải nhưng ông vẫn tự tin bảo vệ ý kiến của mình. Cho đến khi tận mắt chứng kiến thì chuyên gia Fidland và các thành viên khác mới hoàn toàn tin tưởng, bởi đó là một hiện tượng rất kỳ lạ.

Nhiều đợt điều tra, khảo sát khác ở Yên Bái, Vĩnh Phúc, Cao Bằng, Hải Phòng, Ninh Bình… cũng được thực hiện sớm, để bổ sung vào sơ đồ phân loại đất phía Bắc. Cuối năm 1959, dưới sự hướng dẫn của chuyên gia Fridland, và sự chỉ đạo của Bộ Nông Lâm, đoàn khảo sát đất đã sơ bộ hoàn thành công tác điều tra, phân loại đất các vùng miền phía Bắc Việt Nam và lập sơ đồ thổ nhưỡng với tỉ lệ 1 trên 1.000.000.

Từ năm 1959 đến năm 1960, dựa trên sơ đồ thổ nhưỡng này, công tác điều tra lập bản đồ thổ nhưỡng ở tỉ lệ lớn hơn và chi tiết hơn như 1 trên 50.000, tỉnh Hà Đông; 1 trên 25.000 của các nông trường ở vùng Phù Quỳ, Tây Hiếu, Nghệ An; 1 trên 10.000 các nông trường Lam Sơn, Thống Nhất, Thắng Lợi ở Thanh Hóa; 1 trên 5.000 ở Học viện Nông Lâm, Hà Nội; Trại trè Phú Hộ, Phú Thọ được tiến hành liên tục dưới sự chỉ đạo của Bộ môn Thổ nhưỡng nông hóa, Học viện Nông Lâm, Hà Nội, mà nòng cốt vẫn là các cán bộ chuyên về điều tra, khảo sát đất. Trong đó, Bản đồ thổ nhưỡng tỉnh Hà Đông là bản đồ đất đầu tiên của một tỉnh do Tiến sĩ Trần Khải và các đồng tác giả xây dựng vào năm 1962. Nhiều chuyến khảo sát, các thành viên đều chụp những bức ảnh kỷ niệm. tiến sĩ Trần Khải cũng vậy, tuy nhiên hiện nay ông chỉ lưu giữ một bức ảnh duy nhất của mình là chụp cùng chuyên gia Fridland, ngoài cùng bên trái và ông Trần Văn Nam trong chuyến đi khảo sát đất ở miền Tây Thanh Hóa vào năm 1960.

Từ năm 1961 đến 1972, tuy trong điều kiện chiến tranh khó khăn, thiếu trang thiết bị, nhưng ngành Thổ nhưỡng Việt Nam đã hoàn thành một khối lượng công tác điều tra xây dựng bản đồ rất lớn. Toàn bộ diện tích các tỉnh miền Bắc đã được điều tra, xuất bản bản đồ, có thuyết minh kèm theo cho từng tỉnh ở tỉ lệ 1 trên 50.000 và 1 trên 100.000. Hơn 150.000 mặt cắt đất phẫu diện đất đã được đào và mô tả với trên 1 triệu mẫu đất, đặc biệt có khá nhiều mẫu đất đã được nghiên cứu chuyên sâu về tính chất lý-hóa, chất hữu cơ, sinh học… làm cơ sở vững chắc cho điều tra, phân loại đất ở Việt Nam. Năm 1972, hầu hết các tỉnh miền Bắc Việt Nam đã hoàn thành việc xây dựng bản đồ thổ nhưỡng.

Song song với công tác điều tra ở các tỉnh, Cục Điều tra quy hoạch nông nghiệp đã hướng dẫn các nông trường quốc doanh lập bản đồ đất tỉ lệ 1trên 10.000 và 1 trên 25.000. Đồng thời trong thời gian này, bản đồ thổ nhưỡng các tỉnh trung du và đồng bằng miền Bắc Việt Nam tỉ lệ 1 trên 200.000 cũng được hoàn thành và xuất bản.

Năm 1972, trước yêu cầu bức thiết của việc đánh giá toàn bộ tài nguyên đất mà sơ đồ thổ nhưỡng miền Bắc tỉ lệ 1 trên 1.000.000 không thể đáp ứng được, đồng thời để nâng cao chất lượng công tác điều tra, khảo sát đất toàn quốc, Ủy ban Nông nghiệp Trung ương quyết định thành lập Ban biên tập bản đồ đất miền Bắc Việt Nam và giao nhiệm vụ chủ trì công tác này cho Viện Thổ nhưỡng nông hóa. Ủy ban Nông nghiệp Trung ương cũng nhất trí cử Tiến sĩ Lê Duy Thước, khi đó là Viện trưởng Viện Thổ nhưỡng nông hóa làm Trưởng ban biên tập.

Ủy viên khoa học gồm 8 người: Tiến sĩ Trần Khải, Trưởng phòng phân loại đất, Viện Thổ nhưỡng nông hóa; Kỹ sư Đỗ Đình Thuận, Phó bộ môn Điều tra đất, Viện Thổ nhưỡng nông hóa; Tiến sĩ Tôn Thất Chiểu, cán bộ Viện Quy hoạch và Thiết kế nông nghiệp; ông Cao Liêm, Chủ nhiệm bộ môn Nông hóa thổ nhưỡng, trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội; Tiến sĩ Phạm Đình Quắc, cán bộ Viện Thổ nhưỡng nông hóa; Tiến sĩ Vũ Cao Thái, cán bộ Viện Thổ nhưỡng nông hóa; Kỹ sư Trần Văn Nam, Phó chủ nhiệm bộ môn Điều tra đất, Viện Thổ nhưỡng nông hóa; Kỹ sư Phạm Tám, Trưởng phòng Phân tích đất, Viện Thổ nhưỡng nông hóa; Kỹ sư Vũ Ngọc Tuyên, Vụ phó Vụ Quản lý ruộng đất; Kỹ sư Dương Hồng Hiên, Vụ trưởng Vụ Trồng trọt

Tháng 4 năm 1975, đất nước thống nhất. Theo đề xuất của Ban biên tập bản đồ đất, Ủy ban Nông nghiệp Trung ương đã lên kế hoạch điều tra, khảo sát và lập bản đồ thổ nhưỡng các tỉnh miền Nam, để hoàn thành bản đồ đất toàn quốc. Đoàn khảo sát đất miền Nam Việt Nam cũng được thành lập, do Tiến sĩ Lê Duy Thước làm trưởng đoàn; Tiến sĩ Trần Khải là phó đoàn.

Tháng 10 năm 1975, sau một thời gian thảo luận và chuẩn bị kỹ lưỡng, đoàn khảo sát đất lên đường vào Nam. Sau này, tiến sĩ Trần Khải nhớ lại: Bấy giờ, đoàn chúng tôi đi trên 2 chiếc xe ô tô com măng ca mang theo tất cả bản đồ, hồ sơ và trang thiết bị cần thiết. Ngay khi xe bắt đầu qua cầu Hiền Lương là chúng tôi phải quan sát, xác định vị trí, nắm bắt thông tin.

Khi đến Tây Nguyên, Tiến sĩ Lê Duy Thước quyết định phân tách đoàn khảo sát thành 2 đội: Đội khảo sát đất ở Tây Nguyên do Tiến sĩ Trần Khải làm đội trưởng; và đội khảo sát đất ở đồng bằng sông Cửu Long do Tiến sĩ Lê Duy Thước làm đội trưởng.

Đội khảo sát đất do Tiến sĩ Trần Khải làm đội trưởng gồm có: Kỹ sư Đỗ Đình Thuận, Kỹ sư Cao Liêm, Kỹ sư Võ Minh Kha, cán bộ bộ môn Nông hóa thổ nhưỡng, trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội, Kỹ sư Nguyễn Tấn Thương, cán bộ Viện Thổ nhưỡng nông hóa, sau này, ông Thương hy sinh tại huyện Định Quán, Đồng Nai, khi đang chỉ đạo điều tra, khảo sát đất, và được Nhà nước truy tặng liệt sĩ, Kỹ sư Hoàng Xuân Tý, cán bộ Viện Nghiên cứu Lâm nghiệp, Kỹ sư Nguyễn Xuân Quát, cán bộ Viện Nghiên cứu Lâm nghiệp, Kỹ sư Nguyễn Ngọc Bình – cán bộ trường Đại học Lâm nghiệp.

Tây Nguyên hậu chiến tranh đón tiếp đoàn cán bộ khảo sát đất trẻ tuổi bằng khung cảnh hoang tàn, mặt đất loang lổ những hố bom, những phương tiện chiến tranh: xe tăng, xe bọc thép… đã hỏng nằm la liệt, những phần mộ vô danh rải rác khắp nơi… Khi mới đặt chân đến Tây Nguyên, đoàn của Tiến sĩ Trần Khải mang theo giấy giới thiệu của Ủy ban Nông nghiệp Trung ương đến Sư đoàn 773, một trong số những đơn vị bộ đội từ miền Bắc được điều vào đóng quân ở Tây Nguyên, có nhiệm vụ ổn định tình hình chính trị  xã hội, chống Fulro.

Sau khi nghe Tiến sĩ Trần Khải trình bày công việc, ông Trần Kiên, khi đó là Phó bí thư Khu ủy Quân khu 5, kiêm Sư đoàn trưởng sư đoàn 773 đã tạo điều kiện sắp xếp địa điểm ăn, ở cho đội khảo sát; đồng thời bố trí cho bộ đội làm nhiệm vụ bảo vệ, đưa đón cán bộ đến các địa điểm khảo sát đất ở Tây Nguyên. Sau này, ông Trần Khải chia sẻ: Mỗi khi đoàn tiến hành khảo sát, đều phải nghe ngóng tin tức về Fulro và đều có bộ đội lái xe com-măng-ca bảo vệ và đưa đi. Rất may, đi đến đâu, tôi và mọi người cũng nghe tin bộ đội vừa tiêu diệt tàn quân Fulro, nên rất yên tâm làm việc.

Đội khảo sát do ông Trần Khải là đội trưởng bắt đầu tiến hành công việc tại một số địa điểm ở Kon Tum như Sa Thầy, Đắk Uy, Đắk Tô, Pleime… từ đó tiếp tục mở rộng sang các địa bàn thuộc tỉnh Gia Lai và Đắk Lắk. Trong quá trình khảo sát, các thành viên trong đoàn nhận thấy tình hình địa chất ở phía Bắc Tây Nguyên tương đối phức tạp: Kon Tum là vùng đất cổ, hình thành trên nền đá granite; trong khi Gia Lai và Đắk Lắk với đặc thù là đất bazan, có nhiều miệng núi lửa đã phong hóa. Đặc điểm địa chất cảnh quan này hoàn toàn khác biệt với miền Bắc, khiến cho ông và đồng nghiệp rất háo hức khám phá và tìm hiểu. Dựa trên một số tài liệu tham khảo như bản đồ địa hình địa chất, nông trại, đồn điền, tư liệu về khí hậu và thực vật từ thời Pháp để lại (do Cục Bản đồ, Bộ Tổng Tham mưu và các cơ quan chuyên ngành khác cung cấp); sơ đồ đất miền Nam theo phân loại của Soil Taxonomy (hệ thống phân loại đất của Mỹ) do chuyên gia Moorman (người Hà Lan) xây dựng năm 1960…, Đội trưởng Trần Khải đã vạch ra kế hoạch khảo sát cho cả đội, đồng thời trao đổi, định hướng về mặt chuyên môn học thuật.

Trong một tháng làm việc ở Tây Nguyên, đội khảo sát đất của ông Trần Khải đã gặp phải nhiều khó khăn như không thông thạo về địa hình; tình hình an ninh phức tạp nên không dám đi vào vùng sâu, vùng xa; không quen tập tục địa phương nên chỉ khảo sát tập trung ở trong rừng, nương rẫy, đồng cỏ cao nguyên hoặc những cánh đồng hoang; làm việc trong điều kiện trang thiết bị thiếu thốn, không có quần áo bảo hộ và luôn phải đề phòng bắn lén và bom mìn do chiến tranh để lại… Kỹ sư Đỗ Đình Thuận chia sẻ: Trong khi khảo sát đất ở vùng Đắk Uy, Kon Tum, chúng tôi đến một quả đồi ven quốc lộ 14 để nghiên cứu, lấy mẫu đất. Tôi đang cuốc ở lưng chừng đồi thì bất ngờ một đồng nghiệp giật tay, thảng thốt: “Anh không để ý à, nếu cuốc thêm nhát nữa là trúng quả mìn!”. Nhìn lại, chúng tôi mới hú vía. Mặc dù gặp nhiều khó khăn, nhưng các thành viên đội khảo sát luôn tìm được niềm vui trong công việc và hoàn thành nhiệm vụ được giao. Mỗi lần tìm được phẫu diện đất mới lạ là cảm thấy sung sướng, nâng niu như chính đứa con đẻ của mình, kỹ sư Thuận cho biết. Thành quả của một tháng làm việc ròng rã và cật lực của đội là xây dựng được bản phân loại sơ bộ và sơ đồ đất hoàn chỉnh của khu vực Tây Nguyên, thu được nhiều phẫu diện đất, có tọa độ rõ ràng, kèm bản mô tả chi tiết về tính chất hóa-lý của đất, ý kiến dự thảo về phân loại đất và tiềm năng khai thác đất hoang hóa để phục vụ sản xuất nông nghiệp.

Đầu tháng 11 năm 1975, đoàn khảo sát của đội trưởng Trần Khải di chuyển vào thành phố Hồ Chí Minh, hội quân với đoàn của Tiến sĩ Lê Duy Thước, tiếp tục tiến hành khảo sát tại Cà Mau, rừng U Minh Hạ và đồng bằng sông Cửu Long; đồng thời hoàn thành sơ đồ đất tỉ lệ trung bình và tỉ lệ lớn cho 3 địa phương: thành phố Hồ Chí Minh; tỉnh Đồng Nai gồm cả Biên Hòa, Long Khánh, Bà Rịa Vũng Tàu; Hậu Giang gồm cả Cần Thơ và Sóc Trăng.

Tháng 12 năm 1975, Tiến sĩ Lê Duy Thước, Tiến sĩ Trần Khải, cùng toàn đoàn khảo sát đất hoàn tất các công việc ở miền Nam, và trở lại Hà Nội. Trong buổi họp đầu tiên tại Viện Thổ nhưỡng nông hóa của Ban biên tập bản đồ đất, mọi người đã cùng nhau nêu ý kiến thảo luận và thống nhất về bản dự thảo phân loại đất toàn quốc do Tiến sĩ Trần Khải trình bày. Đây là cơ sở để trong những năm tiếp theo, các đoàn điều tra, quy hoạch nông nghiệp của Bộ tiếp tục điều tra, xây dựng bản đồ đất chi tiết cho hầu hết các tỉnh phía Nam.

Đầu năm 1977, bản đồ thổ nhưỡng toàn miền Bắc Việt Nam, tỉ lệ 1 trên 500.000 đã hoàn thành. Năm 1978, Ban Biên tập bản đồ đất hoàn thành việc thống nhất bản đồ thổ nhưỡng các tỉnh miền Nam Việt Nam. Năm 1979, bản đồ đất Việt Nam, tỉ lệ 1 trên 1.000.000 ra đời, trên cơ sở thống nhất bản đồ thổ nhưỡng hai miền.

Bấy giờ trên thế giới hình thành 3 hệ thống phân loại đất khác nhau: Hệ thống phân loại đất của châu Âu (đi đầu là Bỉ và Pháp) thiên về định tính; hệ thống phân loại đất của Bắc Mỹ (đi đầu là Mỹ) thiên về định lượng; hệ thống phân loại đất của Tổ chức Nông lương Liên hiệp quốc (Viết tắt là FAO) là hệ thống định tính, bán định lượng. Trong khi đó hệ thống phân loại đất ở Việt Nam đang sử dụng theo học thuyết phát sinh, theo mô hình của Liên Xô trước đây, và có nhiều nét tương đồng với hệ thống phân loại của châu Âu.

Được sự đầu tư vốn điều tra cơ bản của Nhà nước và Hội Khoa học đất Việt Nam, Ban biên tập bản đồ đất đã quyết định tiến hành thí điểm, điều tra, lập bản đồ đất tỉ lệ 1 trên 100.000 tại tỉnh Đồng Nai, theo hệ thống phân loại của Tổ chức Nông lương Liên hiệp quốc. Đồng thời, Viện Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp đã phối hợp với Viện Thổ nhưỡng nông hóa cũng tiến hành nghiên cứu chuyên biệt các loại đất chính của Việt Nam theo hệ thống phân loại trên.

Trên cơ sở các nghiên cứu và kết quả điều tra, lập bản đồ đất, nhiều cuộc hội thảo về vấn đề này đã được tiến hành. Cân nhắc kỹ lưỡng, Ban biên tập bản đồ đất quyết định thống nhất hệ thống phân loại đất Việt
Nam (kèm danh pháp phân loại đất) theo hệ thống phân loại của Tổ chức Nông lương Liên hiệp quốc, cập nhật theo bản mới nhất từ năm 1988 đến 1990. Việc thống nhất lại hệ thống phân loại đất có tác dụng trong việc trao đổi, giao lưu tài liệu với bạn bè quốc tế, nhưng vẫn mang đặc trưng vốn có của đất đai Việt Nam.