Giáo sư Lê Nam Trà cho biết: Đầu những năm 60, ở nước ta chưa có Bệnh viện Nhi Trung ương mà chỉ có Bệnh viện B[1] là Bệnh viện Nhi đầu tiên ở miền Bắc. Lúc bấy giờ, các bệnh ở trẻ em như: bệnh suy dinh dưỡng, bệnh còi xương, thiếu vitamin A, B1 và các bệnh nhiễm khuẩn như viêm phổi, tiêu chảy cấp…được quan tâm chữa trị còn các bệnh về thận, nội tiết, di truyền chưa được chú ý. Năm 1964, đế quốc Mỹ bắt đầu cuộc chiến tranh đánh phá miền Bắc bằng các cuộc không kích, do đó các trường học ở thành phố Hà Nội phải sơ tán về nông thôn và các tỉnh miền núi. Do điều kiện sinh hoạt thiếu thốn, vệ sinh kém nên trẻ em đi sơ tán thường bị mắc bệnh ngoài da, nhiều nhất là bệnh ghẻ lở do liên cầu khuẩn. Những bệnh này thường dẫn đến viêm cầu thận cấp sau nhiễm trùng. Bệnh viêm cầu thận cấp ở trẻ em phần lớn được chữa khỏi nhưng trong giai đoạn cấp do biến chứng tăng huyết áp đột ngột, gây suy tim cấp, phù phổi cấp… thì bệnh thường trở nên trầm trọng. Thời đó thuốc hạ huyết áp hầu như chỉ có reserpin, các thuốc lợi tiểu mạnh cũng không có nên khi trẻ bị biến chứng phù phổi cấp hầu hết đều tử vong. Tình trạng trên đã gây lo lắng cho các gia đình bệnh nhi bị viêm cầu thận và là nỗi trăn trở của ngành Y. Lúc này, BS Lê Nam Trà đang là giảng viên Bộ môn Nhi, trường Đại học Y Hà Nội, thấu hiểu nỗi đau của các bậc phụ huynh lúc con lâm bệnh nên khi được cử sang CHDC Đức làm nghiên cứu sinh vào năm 1968, ông đã lựa chọn hướng nghiên cứu về Thận trẻ em – một chuyên ngành chưa được nghiên cứu ở nước ta lúc bấy giờ.
Sau 7 tháng học ngoại ngữ tại Herder Insitute thuộc Đại học Lépxich, khi trải qua kỳ thi sát hạch nghe, nói, đọc, viết… được các thầy dạy đánh giá là “very good” BS Trà chuyển đến trường Đại học Humboldt và Bệnh viện trẻ em Charité ở Béclin học tập và nghiên cứu, dưới sự hướng dẫn của GS.TSKH Peter Grossmann – Giám đốc Bệnh viện và là Chủ tịch Hội thận học Trẻ em của CHDC Đức. Mặc dù đã có định hướng từ trong nước nhưng khi GS Peter Grossmann hỏi về đề tài nghiên cứu thì ông vẫn bất ngờ vì chưa có sự chuẩn bị sẽ chọn đề tài nghiên cứu cụ thể nào về Thận trẻ em. Chính vì thế, ông xin thầy thời gian 2 tuần để đi tham khảo tài liệu và lựa chọn đề tài. Qua tham khảo tài liệu, ông thấy ở Đức đang đi sâu vào vấn đề ghép thận, vấn đề lọc thận bằng máy đang rất được quan tâm. Ông cũng tìm đọc sách chuyên khảo về “Sự phì đại bù trừ của thận sau cắt bỏ một thận” (tức là xem xét sự phát triển của quả thận còn lại sau khi cắt một bên thận). Trên thực tế ở người chỉ cần có một thận cũng có thể sống được bình thường nhưng khi một quả thận còn lại đó bị suy, thì phải cấy ghép thận khác. Ông trăn trở suy nghĩ và đặt câu hỏi: Ở các nước phát triển nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng suy thận giai đoạn cuối phải ghép thận là các bệnh viêm thận, viêm bể thận mạn tính; Các bệnh viêm cầu thận mạn tính và bẩm sinh, thường chỉ ghép một thận. Sau khi ghép, bệnh nhân phải dùng các thuốc chống thải ghép như các thuốc ức chế miễn dịch, Corticoids… Vậy khi dùng các thuốc đó thì sự tồn tại và phì đại của thận được ghép sẽ như thế nào? Đó là một vấn đề cần tiếp tục được nghiên cứu. Và ông muốn giải thích cơ chế đó trên chuột để từ đó tìm ra lời giải với con người.
Nghiên cứu sinh Lê Nam Trà cùng bạn bè tại Rostock, Đức, ngày 18-8-1969
Sau hai tuần tìm hiểu, ông đến trình bày với thầy hướng dẫn ý tưởng nghiên cứu về lâm sàng và thực nghiệm các các trường hợp chỉ có một thận. Hướng nghiên cứu được thầy chấp nhận với tên đề tài "Sự phì đại bù trừ của thận và ảnh hưởng của nó". Đồng thời thầy hướng dẫn cũng cử BS Seipelt cùng ông thực hiện đề tài trên để nghiên cứu về lâm sàng.
Để có số liệu thực hiện luận án, nghiên cứu sinh Lê Nam Trà phải mất ba năm nghiên cứu thực nghiệm trên chuột. Ở Viện Độc học có một Trung tâm cung cấp chuột thuần chủng cho công tác nghiên cứu. Tuy nhiên sau khi chuột đã được chuyển đến phòng thí nghiệm tại Bệnh viện Charité để nghiên cứu thì các công việc như: mổ gây bệnh ở thận, lấy thận cắt cho vào tiêu bản, ghi chép kết quả… ông đều phải tự mình làm. Hàng tuần, ông phải đến cho chuột ăn, và theo dõi kết quả nghiên cứu. Ngoài ra, bác sĩ Trà thường xuyên lên thư viện để tra cứu tài liệu, cập nhật các kiến thức mới. Có lần thầy hướng dẫn, khi thấy ông đọc cả những tài liệu không liên quan tới đề tài ông đang thực hiện, thầy đã hỏi: Sao lại đọc "lung tung" vậy? Ông trả lời: Thưa thầy, ở nước tôi các loại bệnh khá đa dạng nên nghiên cứu về thận trẻ em tôi cần nghiên cứu các vấn đề về tim mạch, nhiễm trùng… Giáo sư Trà cho biết: Ở các nước tiên tiến, điều kiện vệ sinh tốt và thực hiện phòng bệnh thấp tim tốt nên bệnh viêm cầu thận cấp sau nhiễm liên cầu ở trẻ em rất ít gặp.
Khi có đủ số liệu, bác sĩ Trà bắt tay vào việc tính toán. Với số liệu phức tạp, cần sử dụng đến máy tính điện tử, ông phải đăng ký với Trường, những số liệu đơn giản hơn, ông tự tính bằng tay. Với ông, khái niệm về Dịch tễ học, Thống kê hiện đại khi đó chưa có, đặc biệt là khái niệm thống kê rất cần để phục vụ cho đề tài nghiên cứu của ông nên ông phải mua quyển "Cơ sở thống kê Y sinh học" để tự học. Các ảnh minh họa trong luận án, ông tự chụp bằng máy ảnh Zenit mượn của anh trai Lê Thiện Phố, tự tráng phim, rửa ảnh…Nhờ công việc này, ông đã có cơ hội biết thêm và nâng cao tay nghề chụp ảnh.
Ngoài nỗ lực của bản thân, Bác sĩ Trà cho rằng để hoàn thiện được bản luận án thì sự giúp đỡ của thầy hướng dẫn rất quan trọng trong việc đưa ra định hướng và luôn dành thời gian để ông báo cáo công việc và giải đáp những thắc mắc, khó khăn ông gặp phải. "Có một lần tôi cần theo dõi sự phát triển của mô thận, để đo nhân tế bào. Muốn làm được việc đó, tôi phải sang một Viện Giải phẫu có phương tiện chuyên dụng để đo. Khi đang thực hiện việc đo nhân tế bào thì đèn huỳnh quang bị cháy. Viện cũng hết đèn để thay. Tôi báo cáo với thầy và thầy đã gọi điện đến một nhà máy để xin đèn huỳnh quang. Rất tiếc nhà máy không sản xuất loại đèn huỳnh quang đó nữa, họ phải vào trong kho lục tìm được 4, 5 chiếc cho tôi. Nhờ có thầy mà công việc của tôi không bị gián đoạn"- GS.TSKH Lê Nam Trà hồi tưởng.
Ngoài việc nghiên cứu thực hiện luận án, BS Trà còn phải làm việc như một bác sĩ bệnh viện. Ông đến bệnh viện sớm trước 15 phút, lấy máu cho bệnh nhân, khám bệnh cho bệnh nhân, làm bệnh án … Nhờ đó mà kiến thức chuyên môn của ông càng thêm vững và ông học được ở họ phong cách làm việc, cũng như cách đào tạo chuyên môn cho những người làm ở ngành Y tại Đức. "Trong quá trình nghiên cứu bệnh thận, kỹ thuật chọc lấy sinh thiết là điều cần phải nắm vững, tuy nhiên muốn lấy được sinh thiết phải sang Khoa Thận của người lớn để thực hiện. Thầy hướng dẫn giới thiệu tôi sang đó học. Họ có quan điểm vì người bệnh, làm trên người bệnh nên phải là những người bác sĩ có chuyên môn rất sâu "bách phát, bách trúng". Do đó, trong thời gian một tháng đầu, tôi chỉ đứng quan sát họ làm. Khi đã nắm vững kiến thức, mỗi ngày tôi thực hiện chọc lấy sinh thiết của một bệnh nhân và khi đã thực hiện thành công 20 ca trên người lớn thì mới được thực hiện sinh thiết trên trẻ em. Và thật ngẫu nhiên, tôi là người chọc sinh thiết thận ca thứ 2000. Sau khi về nước, tôi cũng thực hiện 150 ca sinh thiết thận" – GS.TSKH Lê Nam Trà cho biết.
Tháng 7-1973, nghiên cứu sinh Lê Nam Trà bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ khoa học mà ông đã dành nhiều tâm huyết nghiên cứu tại trường Đại học Humboldt. Luận án của ông đã góp phần giải quyết một số vấn đề trong ghép thận, làm rõ được sự phát triển của thận ghép dưới tác động của các thuốc điều trị, tức là bản thân thận bị bệnh nếu được điều trị vẫn phát triển được.
Tiến sĩ khoa học Lê Nam Trà về nước cuối năm 1973, đó là thời kỳ Hiệp định Paris đã được ký kết. Lúc bấy giờ, Viện Bảo vệ sức khỏe trẻ em[2] tuy đã có quyết định thành lập từ năm 1969 nhưng trụ sở vẫn ở tại Khoa Nhi, Bệnh viện Bạch Mai. Cơ sở vật chất, phương tiện nghiên cứu rất thiếu thốn và lạc hậu. Các chuyên khoa mới bắt đầu được hình thành. Khoa Thận Nhi trẻ em được thành lập năm 1974 khi đó được ghép chung với Khoa Máu tại đơn nguyên A10 do BS Nguyễn văn Thành làm Trưởng khoa. TSKH Lê Nam Trà bắt tay vào việc triển khai một số kỹ thuật chẩn đoán và điều trị bệnh thận ở trẻ em như: Kỹ thuật xét nghiệm nước tiểu; Đếm tế bào trong nước tiểu theo phương pháp Webb-Stanfeld; chụp X-quang đường tiểu; Sinh thiết thận qua da, chọc hút bàng quang, thẩm phân màng bụng và lọc máu để điều trị suy thận cấp ở trẻ em. Bên cạnh đó, ông còn hoàn thành các nghiên cứu về lâm sàng và cận lâm sàng, dịch tễ học và điều trị các bệnh thận thường gặp: Bệnh viêm cầu thận cấp; Hội chứng thận hư; Phương pháp thăm dò chức năng thận (Khả năng cô đặc và pha loãng, mức lọc cầu thận).
Giấy chứng nhận Giải thưởng Arthur Schlossmann cho TSKH Hunbert Seipelt và TSKH Lê Nam Trà, 1974
Lại nói về công trình luận án, với những nghiên cứu về lâm sàng (trên bệnh Nhi) và thực nghiệm trên chuột, đề tài luận án của BS Lê Nam Trà và BS Seipelt sau khi bảo vệ thành công, đã được Hội Nhi khoa CHDC Đức xét duyệt và trao tặng Giải thưởng khoa học mang tên Arthur Schlossmann[3] năm 1974. Nhưng phải đến năm 1977, nhân dịp sang tham dự Hội nghị Thận học Trẻ em các nước xã hội chủ nghĩa tổ chức tại CHDC Đức, TSKH Lê Nam Trà mới chính thức nhận Giấy chứng nhận do Hội Nhi khoa CHDC Đức trao. Trong chuyến đi này, ông còn được kết nạp là hội viên danh dự của Hội Thận học Trẻ em các nước xã hội chủ nghĩa.
Nhớ lại quãng thời gian học tập và công tác đã qua, GS.TSKH Lê Nam Trà không khỏi tự hào vì những kết quả trong đề tài luận án tiến sĩ thực hiện tại CHDC Đức. Giải thưởng Arthur Schlossmann sau đó như là một sự ghi nhận cho những cố gắng và nỗ lực TSKH Lê Nam Trà và TSKH Hunbert Seipelt, cả trong quá trình làm luận án cũng như TSKH Lê Nam Trà triển khai trong thực tiễn sau khi về nước.
Hoàng Thị Liêm
[1] Bốn đơn vị: Bệnh viện B; Bệnh viện Xanh Pôn; Phòng khám Sinh Từ; Bệnh viện Ba Đình sát nhập thành lập Bệnh viện Đa khoa Xanh Pôn năm 1970.
[2] Nay là Bệnh viện Nhi Trung ương.
[3] Arthur Schlossmann (1867-1932) là một Giáo sư Nhi khoa của Đức. Ông là người sáng lập của Phòng khám đầu tiên trên thế giới cho trẻ sơ sinh bị bệnh ở Dresden vào năm 1898. Theo http://translate.google.com.vn/translate?hl=vi&sl=de&u=http://de.wikipedia.org/wiki/Arthur_Schlo%25C3%259Fmann&prev=/search%3Fq%3Darthur-schlossmann-preis%26biw%3D1024%26bih%3D600.