Trong cuộc đời dài 85 năm, giáo sư (GS) Nguyễn Tài Cẩn viết rất nhiều công trình ngôn ngữ học, trong đó không ít công trình được các đồng nghiệp trong nước và quốc tế đánh giá cao. Chính vì những thành tựu nghiên cứu xuất sắc ấy, ông mới trở thành nhà ngôn ngữ học Việt Nam đầu tiên được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Trong bài báo ngắn này, tôi chỉ nêu lên một công trình trong cụm công trình được tặng giải thưởng danh giá ấy. Đó là công trình mà tôi tâm đắc nhất. Cách tốt nhất, theo tôi nghĩ, để tưởng nhớ ông – một nhà khoa học – là làm cho mọi người không quên những công trình khoa học của ông.
Ông đã qua đời, nhưng những công trình khoa học và tấm gương của ông suốt đời tận tuỵ vì khoa học “học nhi bất yếm, hối nhân bất quyện” vẫn còn đó, như một nguồn động viên to lớn đối với những thế hệ nghiên cứu tiếp sau, đặc biệt là các bạn trẻ đang bắt đầu đặt chân lên con đường không hề bằng phẳng của khoa học…
Lội ngược dòng bao thế kỷ
Trong tiếng Việt, lớp từ Hán – Việt (Sino-Vietnamese) chiếm một tỷ trọng rất lớn, nhất là ở phong cách nghị luận, chiếm khoảng 60 – 70%. Mức độ phong phú của lớp từ này có thể coi như vô hạn. Những thập niên gần đây, và cả từ nay về sau, khi cần thiết, chúng ta vẫn có thể mượn thêm những từ Hán mới, mà không phá vỡ cấu trúc nội tại của tiếng Việt. Đâu phải chỉ các cụ đồ thời xưa, mà cả một số nhà khoa học hiện đại thông thạo chữ Hán, như GS Hoàng Xuân Hãn, đã làm phong phú thêm tiếng Việt bằng những từ Hán hiện đại như: định lý, định luật, đẳng thức, phương trình, nguyên tử, điện tử, lượng tử… Chỉ có điều, chúng ta nói phương trình vi phân, theo ngữ pháp Việt Nam, chứ không nói vi phân phương trình, theo ngữ pháp Trung Quốc. Cũng như ông cha ta vẫn nói hoa mai, chứ không nói mai hoa, hoặc nói ngoại thành, chứ không nói thành ngoại.
Trong các lĩnh vực chính trị, quân sự, ngoại giao, lớp từ Hán – Việt cũng rất lớn: duy vật, duy tâm, cương lĩnh, chính sách, chiến lược, sách lược, du kích, chính quy, tiến công, phòng ngự, sư đoàn, quân đoàn, tả khuynh, hữu khuynh, giáo điều, kinh viện…
Tại sao cả một lớp từ “đông đúc” như vậy đi sâu vào vốn từ tiếng Việt, mà lại không làm thay đổi cấu trúc nội tại của Việt ngữ? Chính là vì người Việt phát âm từ Hán theo cách đọc Hán – Việt, chứ không theo cách đọc của tiếng Quan thoại (Guanhua) hay Phổ thông thoại (Putonghua) ở Trung Quốc hiện nay, chủ yếu dựa vào cách phát âm của người Bắc Kinh (Beijing).
Sự “tài tình” của cách đọc Hán – Việt là ở chỗ giúp người Việt Nam đọc tiếng Hán mà cứ y như đọc tiếng Việt!
Vậy thì, cách đọc Hán – Việt hình thành từ bao giờ, đã phát triển ra sao, đã trải qua bao nhiêu thế kỷ?
Một câu hỏi lớn đối với giới Đông phương học
Không chỉ các nhà ngôn ngữ học Việt Nam và Trung Quốc, mà cả giới Đông phương học quốc tế cũng chú ý đến cách đọc Hán – Việt. Bởi vì, muốn nghiên cứu tiếng Hán trung đại, nghiên cứu cách đọc tiếng Hán ở Nhật Bản theo Go-On (Ngô âm) hay theo Kan-On (Hán âm), hoặc nghiên cứu cách đọc tiếng Hán ở Triều Tiên theo cách đọc Hán – Triểu, đều rất cần sự so sánh, viện dẫn cách đọc Hán – Việt, từ đó, lắm khi có thể rút ra những kiến giải bất ngờ, lý thú. Về sự quan tâm quốc tế đó, có thể nêu lên hai thí dụ. Năm 1972, Tam Căn Cốc Triệt, nhà Hán ngữ học người Nhật Bản, cho in cuốn sách chuyên khảo nhan đề: Khảo sát cách đọc Hán – Việt (Study on the Sino-Vietnamese). Trước đó, năm 1967, một người Nhật Bản khác, GS Bình Sơn Cửu Hùng, viết cuốn Trung cổ Hán ngữ âm vận xuất bản ở Trung Quốc.
Cứ liệu lịch sử cho biết, ngay từ đời nhà Hán, một số thái thú Trung Hoa như Tích Quang (Ji Guang), Nhâm Diên (Ren Yan) và Sĩ Nhiếp (Shi Nie) đã ra sức “Hán hoá” vùng Giao Chỉ, Cửu Chân. Sĩ Nhiếp được các sử gia người Việt Nam thời sau suy tôn làm “Nam giao học tổ” (ông tổ việc học ở vùng đất phương Nam).
Gần đây, đền thờ và lăng mộ Sĩ Nhiếp ở Luy Lâu (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh) đã được Nhà nước ta công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa.
Nhưng phải đến đời Tuỳ – Đường, trình độ Hán học ở Giao Châu mới có thể sánh với ở Trung Nguyên. Khương Công Phụ, người làng Cổ Hiểm, huyện Cửu Chân, Ái Châu (nay thuộc huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá) đến kinh đô Tràng An dự thi hội và thi đình, đã đạt tới học vị tột đỉnh vẻ vang của các nho sĩ thời xưa: đỗ Trạng nguyên. Ông được Hoàng đế nhà Đường mời lưu lại Tràng An, về sau, làm đến chức Tể tướng Trung Quốc. Có điều đáng tiếc là, đời Đường hạn chế số người An Nam được sang Trung Quốc thi hội và thi đình mỗi khoa không quá 8 người!
Đền thờ Khương Công Phụ hiện vẫn còn ở Thanh Hoá.
Các nhà Đông phương học hầu như nhất trí cho rằng cách đọc Hán – Việt hiện nay chính là bắt nguồn từ cách đọc chữ Hán đời nhà Đường ở kinh đô Trường An, từ hệ thống ngữ âm tiếng Hán được dạy lần cuối cùng ở Giao Châu trước khi Việt Nam giành được độc lập vào thế kỷ thứ 10.
Từ thế kỷ thứ 10 đến nay, cách đọc Hán – Việt theo quỹ đạo phát triển của tiếng Việt, không còn lệ thuộc vào những gì biến đổi trong ngữ âm tiếng Hán ở bên kia biên giới. Nhiều thế kỷ trôi qua, hai cách đọc chữ Hán của người Hán và người Việt ngày càng khác xa nhau đến mức một người uyên thâm chữ Hán như cụ Phan Bội Châu khi đặt chân đến Trung Quốc chỉ có thể… bút đàm!
Lớp từ Hán – Việt ngày càng lọt sâu vào kho từ vựng tiếng Việt, những nét xa lạ về mặt ngữ âm mất dần, và rồi trở thành một bộ phận khăng khít – chứ không phải được “cấy ghép” – của hệ thống Việt ngữ.
Từ hàng vạn trang sách, xem xét lại 10 thế kỷ
Trên đây, để cho dễ lĩnh hội, tôi đã tóm lược những kết luận khái quát. Tất nhiên, trước khi đi đến những kết luận như thế, Nguyễn Tài Cẩn phải bỏ ra biết bao công sức! Chẳng hạn, nói rằng cách đọc Hán – Việt hiện nay là bắt nguồn từ cách đọc chữ Hán đời nhà Đường ở Tràng An, vậy thì, vào đời ấy, người Trung Quốc ở kinh đô đọc chữ Hán ra sao? Tiếng Hán đời ấy có những phụ âm, những vần, và những thanh điệu nào? Nếu sử dụng cách phiên âm quốc tế hiện nay để ghi lại, thì sẽ phải dùng những ký hiệu nào? Nhà khoa học không thể “phán” nếu thiếu những luận cứ vững chắc.
Và nữa, cách đọc chữ Hán của người Việt hồi thế kỷ thứ 8 – 9 là như thế nào? Gồm những phụ âm, những vần, và những thanh điệu nào? Từ thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ thứ 20, cách đọc Hán – Việt đã biến đổi ra sao?
Để trả lời những câu hỏi ấy, phải sử dụng những phương pháp hiện đại của ngữ âm học lịch sử mà, nếu trình bày trong bài báo này, thì sẽ đi quá sâu vào học thuật, sử dụng nhiều biểu bảng, nhiều chữ Hán, nhiều ký hiệu phiên âm, rất khó in và khó hiểu.
H. Maspéro đã viết cuốn Tiếng địa phương Trường An đời Đường (Le dialecte de Tchang-an sous les Tang). B. Karlgren viết Khảo sát âm vị học tiếng Hán (Études sur la phonologie chinoise). Đặc biệt, cuốn Thiết vận của nhóm Lục Pháp Ngôn (Lu Fa Yan) ở Trường An đầu thế kỷ thứ 7 là tài liệu tham khảo quan trọng đối với Nguyễn Tài Cẩn.
Đọc hàng vạn trang sách của các nhà Đông phương học bằng các thứ tiếng Hán, Nôm, Quốc ngữ, Anh, Pháp, Đức, Nga, Nhật, v.v. về vấn đề liên quan, đưa ra thêm những luận cứ mới, những kiến giải riêng, Nguyễn Tài Cẩn đã soi rọi đến tận ngọn nguồn cách đọc tiếng Việt, một cách đọc đã giúp người Việt Nam dễ dàng tiếp nhận những tinh hoa của văn hoá Hán, nền văn hoá lớn nhất phương Đông, mà không bị “Hán hoá”.
Cách đọc Hán – Việt có từ bao giờ? Và đã biến đổi ra sao qua bao nhiêu thế kỷ? Để trả lời những câu hỏi đó, GS Nguyễn Tài Cẩn đã phải viết cả một cuốn sách 400 trang khổ nhỡ, được in đi in lại nhiều lần và được dịch ra tiếng nước ngoài.
“Chao ôi, thầy kỹ tính quá!”
Chiều hôm ấy, trời lâm thâm mưa. Ông Trần Trí Dõi, Phó Chủ nhiệm Khoa Ngôn ngữ Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội) đưa chị Barbara Niedeer đến nhà GS Cẩn ở một ngõ nhỏ bên đường Hoàng Quốc Việt. Dép bết bùn, chị Barbara vừa bước vào nhà vừa vội vã nói:
– Em sắp trở lại Paris. Em đã dịch xong cuốn sách của thầy. Mong thầy cho phép em đưa in bản dịch.
– Cuốn nào thế nhỉ?
– Cuốn Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán – Việt ấy mà! Trước kia, em chẳng chú ý đến cuốn sách đó. Nhưng thầy A.G. Haudricourt “bắt” em đọc! Đọc rồi, em mới cảm thấy hay. Và em quyết định phải dịch ra tiếng Pháp. Em nghĩ cuốn sách của thầy sẽ giúp ích nhiều hơn cho các nhà Đông phương học trên thế giới nếu họ có trong tay bản dịch tiếng Pháp. Sứ quán Pháp tại Hà Nội giúp em…
Barbara Niedeer viết Luận án tiến sĩ về tiếng Mông – Dao. Chị đã từng sống suốt nửa năm ròng trên bản Mông cao chót vót. Là người Pháp gốc Thuỵ Sĩ, chị thông thạo các thứ tiếng Pháp, Anh, Đức, Tây Ban Nha, biết cả tiếng Trung Quốc, Việt, Mông, Dao. Chị hiện làm việc tại Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu khoa học Pháp, và là học trò yêu của thầy A. G. Haudricourt.
– Tôi rất cảm ơn cô! Nhưng mong cô thông cảm cho: Gần đây, tôi nghe nói bên Mỹ vừa xuất bản cuốn A Handbook of Old Chinese Phonology (Sách chỉ dẫn về ngữ âm tiếng Hán cổ) của W.H. Baxter dày tới 900 trang. Tất nhiên, đó là cuốn sách viết về tiếng Hán cổ, nhưng rất có thể có liên quan phần nào đến cách đọc Hán – Việt. Tôi cần tham khảo cuốn sách đó để, nếu cần, thì chỉnh lý đôi chút cuốn sách của mình cho cập nhật. Cô chịu khó chờ một thời gian nhé!
– Chao ôi, thầy kỹ tính quá! – Barbara thất vọng kêu.
May sao, chỉ một thời gian ngắn sau đó, GS Cẩn tìm được cuốn sách của W. H. Baxter và đọc rất kỹ. Ông vui mừng nhận thấy, quan điểm của Baxter không có gì mâu thuẫn với quan điểm của ông.
Thế là trong bức thư điện tử gửi cho chị Barbara Niedeer, ông bày tỏ sự đồng ý hoàn toàn để chị đưa in bản dịch cuốn sách của ông.
Hàm Châu