Đài phát thanh Mễ Trì qua ký ức của GS Nguyễn Văn Ngọ

Mối duyên từ sớm…

Đài phát Mễ Trì là một đài phát sóng phát thanh do Liên Xô viện trợ cho Việt Nam sau khi cuộc Kháng chiến chống Pháp thành công, được xây dựng từ 1956. Đài này có máy phát sóng trung (150 KW), và máy phát sóng ngắn (50 KW), là những máy công suất lớn trong khu vực Đông Nam Á vào thời điểm đó. Bước sóng trung 297 mét (ứng với tần số 1010 kHz) mà Đài Tiếng nói Việt Nam đăng ký với quốc tế không những thuận lợi về mặt truyền sóng, mà còn có ý nghĩa lịch sử ở chỗ 1010 là năm Vua Lý Thái Tổ dời đô ra Hà Nội.

Trong những năm Kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Đài Mễ Trì đảm nhận trọng trách phát sóng những chương trình của Đài Tiếng nói Việt Nam, đó không những là phương tiện đưa thông tin của Đảng, Chính phủ đến với đồng bào và chiến sĩ cả nước, kể cả những quân nhân Mỹ và binh sĩ chính quyền Sài Gòn thời bấy giờ, mà còn là tiếng nói của một quốc gia với bạn bè quốc tế.

“Tiếng nói Đảng ta, tiếng nói Bác Hồ.

Khúc hát Điện Biên vẫn ấm từng khe cửa

Phá vành đai, xuyên giới tuyến, tháp canh.

Sài Gòn thức đêm đêm theo Hà Nội

Nghe tim Thủ đô đập giữa tim mình”.

Tháng 8-1958, trường Đại học Bách khoa thành lập Bộ môn Vô tuyến điện, cơ sở thí nghiệm chưa có gì, trong khi việc xây dựng cơ bản ở Đài Mễ Trì vừa hoàn thành, đang đi vào giai đoạn lắp đặt thiết bị. Nguyễn Văn Ngọ hồi đó là Chủ nhiệm Bộ môn đã liên hệ với Đài để có thể đưa sinh viên khóa 1 đến phụ việc lắp máy và thực tập. Ông cho biết, nhân viên kỹ thuật của Đài Tiếng nói Việt Nam thời kỳ đó rất ít, lại vừa học vừa làm. Công tác ở Đài có kỹ sư Hoàng Sước ở Pháp về giảng những kiến thức cơ sở về Điện và Vô tuyến điện, ông Nguyễn Cung hướng dẫn thực hành, những người này 3 năm sau đều vào học tại chức ngành Vô tuyến điện của trường Đại học Bách khoa Hà Nội. Sự tham gia, thực tập của lớp sinh viên khóa 1 hệ chính quy ngành Vô tuyến điện tại Đài là một cơ hội để được “học kết hợp với hành” các môn kỹ thuật điện, máy phát sóng Vô tuyến điện công suất lớn, anten, truyền sóng, ngoài ra họ cũng là một nguồn nhân lực được chuẩn bị tốt, tiếp thu nhanh sự chỉ dẫn của các chuyên gia Liên xô trong việc lắp đặt thiết bị. Với tư cách là thầy giáo hướng dẫn sinh viên thực tập, Nguyễn Văn Ngọ trực tiếp dịch, thuyết minh về máy bằng tiếng Nga và giảng cho sinh viên. Ông cho biết công việc này khá bận rộn, vì trong một đài phát sóng công suất lớn, ngoài hệ cao tần còn nhiều hệ kỹ thuật khác, như nguồn điện đến và hệ cung cấp điện năng toàn đài, hệ lọc và cấp gió và nước làm nguội đèn công suất, hệ tự động và rơle, hệ thông gió cho toàn nhà máy, hệ cáp dẫn chương trình từ đài bá âm tới, v.v., cái nào cũng có một hệ chính, một hệ dự phòng rất phức tạp.

Tem về Anten Mễ Trì

…Và những kỷ niệm

Mặc dù từ năm 1958 đến 1976, Nguyễn Văn Ngọ không phải là cán bộ chính thức của Đài phát Mễ Trì nhưng mỗi khi có vấn đề kỹ thuật phát sinh, thì dầu lớn dầu nhỏ Lãnh đạo Cục Kỹ thuật Phát thanh đều mời ông đến cùng xem xét, tham gia ý kiến, hoặc cùng nghiệm thu, đánh giá. Khoảng thời gian làm việc lâu dài cũng như kỷ niệm với những con người đội ngũ cán bộ nhân viên làm việc ở đây đã hằn sâu trong suy nghĩ của ông. Cũng tại môi trường làm việc này ông có cơ hội học hỏi từ người công nhân, từ người kỹ sư để hoàn thiện cho chính bản thân mình, để sau đó có thể phục vụ một cách tốt nhất cho ngành, cho đất nước.

Cũng chính vì gắn bó và coi Đài Mễ Trì như ngôi nhà của mình nên những sự kiện diễn ra ở đây được GS Nguyễn Văn Ngọ nhớ như in và nhắc lại như một phần lịch sử không thể thiếu của Đài. Ông cho biết sự đóng góp và ảnh hưởng của Đài phát Mễ Trì vào sự nghiệp giải phóng miền Nam là rất lớn và Mỹ luôn tìm cách phá hoại đài này. Vào lúc 4 giờ 59 phút ngày 19-12, ba tốp B52 (bộ đội ta đánh số là 527, 528, 529) rải một thảm bom hơn 200 quả xuống khu vực Mễ Trì, phá hỏng trạm phát sóng chính. Do Đài Tiếng nói Việt Nam, được sự giúp đỡ của các nước Xã hội chủ nghĩa đã chuẩn bị để đối phó với tình huống này từ lâu rồi nên 9 phút sau nhân dân cả nước và kiều bào ở các nước láng giềng lại tiếp tục được nghe buổi phát thanh với hô hiệu quen thuộc “Đây là Tiếng nói Việt Nam”. Thực ra đó là sóng trung phát nhờ trên đài bạn, còn về sóng ngắn, lúc đó Việt Nam đã có đài phát sóng CK2 ( thành lập từ tháng 8-1964, nằm trong hang Núi Vàng, giữa những dãy núi và rừng cây, thuộc địa phận xã Tân Tiến, huyện Chương Mỹ) phát tiếp chương trình Đài Mễ Trì đang phát dở dang.

Một điều thú vị nữa là bom B 52 rải thảm dày đặc như thế nhưng 2 cột anten sóng trung của Liên Xô xây cho Đài Mễ Trì chẳng hề hấn gì, đến nay đã 56 năm qua chúng vẫn lừng lững ở đấy “trơ gan cùng tuế nguyệt”, và đang phục vụ cho phát sóng FM trung ương.

                                                                              

Hệ anten Đài phát sóng phát thanh Mễ Trì những năm chiến tranh

Giáo sư Nguyễn Văn Ngọ cho biết, vào thời điểm đó Đài Tiếng nói Việt Nam đã lường trước được việc Mỹ sớm hay muộn sẽ hủy diệt Đài Mễ Trì cho nên cũng vào cuối năm 1972, ông Nguyễn Cung – Trưởng đoàn cán bộ Đài Tiếng nói Việt Nam, và công trình sư Ivanov – Trưởng đoàn cán bộ Bộ Thông tin – Truyền thông Liên Xô đã hoàn thành việc khảo sát, định vị địa điểm xây dựng một nhà máy phát sóng mới và lớn cho Đài tiếng nói Việt Nam tại thôn Lễ Khê, xã Xuân Sơn, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây, cách Hà Nội 40km, cạnh hồ Suối Hai để có nguồn nước cung cấp ổn định cho nhà máy. Công suất sóng trung của Đài là 1200 KW (lớn nhất vùng Đông Nam Á, và ngang với Đài Phát thanh Bắc Kinh). Toàn bộ khảo sát, thiết kế, thiết bị, máy móc, vật tư, kỹ thuật, chuyên gia, hậu cần… đều do Liên Xô viện trợ không hoàn lại. Đài này được đặt tên là đài VN-1.

Đài VN-1 đến 1980 mới được khánh thành, cho nên sau vụ ném bom cuối năm 1972, Chính phủ Việt Nam nhờ các nước bè bạn giúp đỡ cũng sớm trang bị được máy phát để duy trì việc phủ sóng phục vụ cho chiến dịch Hồ chí Minh, và từ sau 30/4/1975 có thêm hệ các đài tiếp quản từ chính quyền cũ ở miền Nam, cũng đủ để đáp ứng nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới.

 Những người thầy, người bạn

Cuối năm 1976 Nguyễn Văn Ngọ về Đài Tiếng nói Việt Nam công tác và từ đầu năm 1977 ông làm trợ lý Cục trưởng Cục Kỹ thuật Phát thanh, giúp Cục trưởng trong một số vấn đề quản lý kỹ thuật các đài phát, trong đó có Đài Mễ Trì. Năm 1980 ông được cử làm Chủ tịch Hội đồng Khoa học Ủy ban Phát thanh và Truyền hình Việt Nam, và khi Vụ Khoa học Kỹ thuật của Ủy ban được thành lập, ông được cử làm Vụ trưởng, chính thức quản lý hệ thống kỹ thuật Phát thanh và Truyền hình Việt Nam.

Cảm nhận về thời gian làm việc ở Đài Mễ Trì cũng như Cục Kỹ thuật Phát thanh, về mối quan hệ với những người thầy, người bạn, GS Nguyễn Văn Ngọ cho biết: “Ai đã vào làm việc ở Cục Kỹ thuật Phát thanh Đài tiếng nói Việt Nam thì về sau dầu có chuyển đi công tác ở nơi đâu vẫn coi đấy là gia đình lớn của mình. Lý do là những con người ở đó rất yêu nghề, toàn tâm toàn ý vì công việc, không bon chen, chèn ép lẫn nhau, do đó rất đoàn kết”.

Ông nêu ra hai con người điển hình, một ở Cục Kỹ thuật Phát thanh và một ở Đài Mễ Trì. Trước hết là về ông Nguyễn Cung, thời thuộc Pháp ông Cung tốt nghiệp trường Kỹ nghệ Thực hành, làm việc ở Đài Vô tuyến điện Bạch Mai của Pháp. Khi Cách mạng tháng Tám thành công, ba người có trình độ kỹ thuật cao nhất ở đài đó là kỹ sư Nguyễn Văn Tình (tốt nghiệp SupElec ở Pháp), tham sự Ngô Thế Duông (có quốc tịch Pháp), và kỹ thuật viên Nguyễn Cung đi theo Cách mạng, và khi ngày toàn quốc kháng chiến ba ông cùng theo cơ quan lên Việt bắc. Ông Tình và Duông về Sở Vô tuyến điện Trung ương, còn ông Nguyễn Cung phụ trách kỹ thuật chính của Đài Tiếng nói Việt Nam ở Việt Bắc. Sau khi hòa bình lập lại (1954), ông Nguyễn Cung cùng với chuyên gia Liên Xô xây dựng Đài Mễ Trì, rồi Đài VN-1.

Về ông Nguyễn Cung, GS Nguyễn Văn Ngọ chia sẻ: “Về tuổi đời, tuổi nghề bác Cung là người anh cả của tôi, về kiến thức tổng hợp ngành Phát thanh và kinh nghiệm xây dụng các công trình lớn, bác là bậc thầy của tôi, còn về đạo đức và cách ứng xử trong cuộc đời tôi coi bác là thần tượng! Tất cả những điều bác làm đều vì lòng yêu nước yêu nghề, còn ngoài ra không màng bất cứ danh lợi gì. Lương bao nhiêu, cấp bậc gì, bác không bao giờ quan tâm, nhưng đã ủy thác cho bác công việc gì thì khó đến mấy, gian khổ đến mấy bác cũng nhận. Làm việc với chuyên gia Liên Xô thì bác tự học tiếng Nga, làm việc với chuyên gia Trung Quốc, bác tự học tiếng Trung, cả đời bác tự học trong công việc”.

Về người điển hình ở Đài Mễ Trì được GS Nguyễn Văn Ngọ nhắc đến là ông Nguyễn Văn Sinh, một đồng nghiệp của ông. Xuất thân là một cố nông, ông Sinh xin vào làm công nhân ở Đài Mễ Trì, theo học bổ túc văn hóa mỗi năm một lớp. Sau khi học xong lớp 10, ông Sinh thi vào Đại học tại chức ngành Vô tuyến điện trường Đại học Bách khoa. Tiến bộ dần trong nghề nghiệp, khi có bằng kỹ sư thì cũng vừa lúc được lên bậc Trưởng ca ở Đài Mễ Trì. Nhờ sự tích cực cùng đồng nghiệp khắc phục nhanh chóng hậu quả, khẩn trương khôi phục đường điện, đường nước, đường tín hiệu, dọn mặt bằng và xây dựng cơ bản, cũng như thể hiện năng lực chuyên môn trong việc cùng chuyên gia bạn lắp đặt máy phát, anten mới, ông Sinh được bầu là Chiến sĩ thi đua toàn quốc, và được đề bạt là Phó Cục trưởng Cục Kỹ thuật Phát thanh, sau được cử làm Cục trưởng. GS Nguyễn Văn Ngọ còn nhớ một lần tham dự Hội nghị do Hội Vô tuyến – Điện tử Việt Nam tổ chức, khi nghe giới thiệu có Kỹ sư Nguyễn Văn Sinh, Cục trưởng Cục Kỹ thuật Phát thanh, PGS Hoàng Sước ngớ người, hỏi nhỏ ông rằng: “Cậu Sinh này khi mình làm Phó Đài Mễ Trì xin vào làm công nhân, bây giờ lại là Cục trưởng à?”. GS Ngọ nói vui: “Hơn 30 năm trước, ông là kỹ sư Phó Đài, bây giờ là PGS.TS, Phó Hiệu trưởng Đại học Bưu điện, thì công nhân của ông lên Cục trưởng cũng không có gì là lạ!”

 Sau nầy, GS Nguyễn văn Ngọ có nói thêm với PGS Hoàng Sước rằng: “Những năm 60 của thế kỷ trước, Đài phát sóng Mễ Trì với công suất 150 kW là mạnh nhất Đông Nam Á, đến năm 1980 nó phải dành vị trí đó cho đài VN-1 có công suất 1500 kW, rồi đến năm 1997 VN-1 lại phải nhường ngôi cho VN-2 với công suất sóng trung 3500 kW, đến đầu thế kỷ 21 này Mễ Trì chỉ còn là đài có công suất nhỏ nhất trong 12 đài phát sóng của Tiếng nói Việt Nam trong toàn quốc. Tuy vậy cái vĩ đại của Mễ Trì là bao nhiêu đài sóng phát thanh và phát sóng truyền hình xây dựng sau nó, tuy công suất có lớn hơn, công nghệ có hiện đại hơn, thậm chí có cái đã hoàn toàn bán dẫn hóa, không còn dùng đèn điện tử chân không nữa. Nhưng tất cả đều do tay những kỹ sư đã trưởng thành lên từ Mễ Trì lắp đặt và điều chỉnh cả!”

Chia sẻ về những bài học mà ông cho là quý giá, GS Nguyễn Văn Ngọ cho biết: “Từ một thầy giáo ở nhà trường, ra Cục Kỹ thuật Phát thanh qua 3 năm làm trợ lý Cục trưởng tôi học được ở những người học trò cũ của tôi cách làm quản lý. Nhờ có thời kỳ này mà khi được giao làm Vụ trưởng quản lý nhà nước cả ngành Phát thanh và Truyền hình trên quy mô toàn quốc tôi đã vững vàng”.

Giáo sư Nguyễn Văn Ngọ cũng cho rằng kỹ thuật phát thanh khác với kỹ thuật khác ở chỗ: Ngoài khả năng hiểu biết, giỏi về kỹ thuật thì phải tuân theo quy trình, quy chế hết sức nghiêm ngặt. Yêu cầu đòi hỏi không để “Tiếng nói Việt Nam” bị gián đoạn quá 3 phút, cho nên vào ca trực ai cũng phải “căng như dây đàn”. Làm việc như tác phong Quân đội, đặc biệt ở những cơ sở phát sóng. Ông đã nhiều lần đến thị sát công việc tại các Đài Mễ Trì, CK2, VN-1, VN-2, VN-3, cũng như các đài do chính quyền Sài Gòn để lại sau ngày miền Nam giải phóng, đến có hẹn trước và không hẹn trước, cả trong giai đoạn đang xây dựng lẫn trong giai đoạn đã đi vào khai thác, ông nhận thấy rằng đời sống tại các cơ sở này cực kỳ gian khổ, không những đối với cán bộ công nhân viên của Đài, mà còn cả đối với gia đình của họ vì đài phát sóng bao giờ cũng trong một khuôn viên được bảo vệ nghiêm ngặt và xa vùng dân cư, xa chợ búa, xa trường học, xa bệnh viện. Ông Đài trưởng vừa làm nhiệm vụ quản lý kỹ thuật, vừa làm nhiệm vụ quản lý hành chính, mà lại kiêm luôn cả nhiệm vụ “trưởng thôn”!

Những suy nghĩ và đồng cảm đó của GS Nguyễn Văn Ngọ thật sự sâu sắc, và đó cũng là những suy nghĩ của những người nhiều năm gắn bó với nghề Vô tuyến điện. Phải chăng, mọi sự cố gắng và thành công của ông đều bắt nguồn từ cái tâm và sự tận tụy với nghề.

Nguyễn Thanh Hóa (ghi)