Dấu ấn với Viện Chăn nuôi

Năm 1966, Nguyễn Văn Thưởng bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sĩ khoa học nông nghiệp, chuyên ngành Chăn nuôi tại Học viện Nông nghiệp Timiriazev Matxcơva (Liên Xô). Về nước, ông nhận công tác ở Viện Khoa học Nông nghiệp do GS Bùi Huy Đáp làm Viện trưởng. Sau gần ba năm phụ trách Ban nghiên cứu phương pháp Sinh lý hóa Nông nghiệp, ông được điều động về công tác tại Viện Chăn nuôi, Bộ Nông nghiệp. Từ đó, với vai trò là Phó Viện trưởng (1969-1978), rồi Viện trưởng (1979-1988), những thành tích đạt được của Viện về khoa học và quản lý đều có sự đóng góp của ông.

Đổi mới khoa học và kỹ thuật chăn nuôi

Vào cuối những năm 1960, do tập quán chăn nuôi lạc hậu lâu đời, các giống vật nuôi truyền thống của Việt Nam thường nhỏ con và năng suất thấp. Nhằm thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nêu mục tiêu cho ngành Nông nghiệp phấn đấu đưa chăn nuôi từ sản xuất nhỏ, cá thể, phụ thuộc, năng suất thấp thành ngành chăn nuôi phát triển năng suất cao, cân đối với trồng trọt và từng bước trở thành một ngành sản xuất chính trong nông nghiệp. Những năm 70, Nhà nước đã cho phép nhập một số giống gia súc, gia cầm ngoại như các giống lợn Yoocsai, Becsai, Landrat, Duroc; giống bò sữa Lang trắng đen Bắc kinh, Holstein Friesian; giống trâu sữa Mu ra; gà Lơ go; vịt Thung lũng anh đào; ngỗng Rê nan; ngựa Cabacdin… để nghiên cứu nuôi thích nghi và nhân giống thuần chủng.

Trên cơ sở những giống gia súc, gia cầm trong nước và những giống vật nuôi nước ngoài mới nhập, PTS Nguyễn Văn Thưởng cùng TS Trần Thế Thông (lúc đó là Viện trưởng Viện Chăn nuôi) xây dựng kế hoạch phát triển Viện và xác lập phương hướng nghiên cứu của Viện giai đoạn 1969-1979, với mục tiêu triển khai 3 nội dung chính trong nghiên cứu khoa học là:

– Nghiên cứu dinh dưỡng giải quyết vấn đề thức ăn, vấn đề quan trọng hàng đầu trong tổ chức chăn nuôi các giống vật nuôi.

– Nghiên cứu xác định các biện pháp tăng năng suất sinh sản nhằm nâng cao tỷ lệ thụ thai và tỷ lệ đẻ của đàn gia súc, gia cầm.

– Nghiên cứu các biện pháp tăng năng suất sinh trưởng như biện pháp cải tạo giống nội, thích nghi hóa giống ngoại, lai tạo giống mới.

Ba nội dung trên được xem là bước khởi đầu của “Cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật chăn nuôi – động lực trực tiếp thúc đẩy chăn nuôi phát triển”[1].

Viện trưởng Nguyễn Văn Thưởng báo cáo tại Hội nghị tổng kết 15 năm Viện Chăn nuôi (giai đoạn 1969-1984), năm 1986

GS.TS Nguyễn Văn Thưởng chia sẻ, công việc đầu tiên lúc bấy giờ là tiến hành chọn lọc để xây dựng đàn giống thuần và dùng con đực cho lai cải tạo các giống nội. Do đó, Viện tập trung vào lai kinh tế tạo đàn lai F1 có năng suất sinh sản và sinh trưởng cao hơn, như: lai lợn, vịt, bò sữa, bò thịt, trâu thịt…

Từ những nghiên cứu trên đã gợi ý cho nghiên cứu về kỹ thuật sản xuất, chế biến các loại thức ăn theo khẩu phần. Các ruộng cỏ lần lượt mọc lên tầng tầng, lớp lớp ở các trạm trại thuộc Viện. Nguồn thức ăn tự cung, tự cấp đảm bảo dinh dưỡng cho vật nuôi đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Cùng đó, Viện trưởng Nguyễn Văn Thưởng chỉ đạo tiến hành việc lai bò vàng địa phương có máu bò Sind thành bò Lai Sind và lai tạo được một số giống mới như: giống lợn trắng Đại bạch, lợn Ỉ, lợn đen, giống gà kiêm dụng trứng thịt Rốt ri cho năng suất cao. Kết quả đạt được thật đáng khâm phục, ở lợn lai kinh tế và lợn giống mới, lợn con nuôi 8 tháng tuổi đạt khối lượng trung bình 85-90kg với tỷ lệ thịt nạc trên thân thịt xẻ 44-46% (trong khi đó, ở lợn nội phải nuôi 10 tháng tuổi mới đạt được 50-60kg, tỷ lệ thịt nạc 34-36%). Sản lượng trứng của gà Rốt ri đạt 160-180 quả trứng/năm (tăng 60-80% so với gà Ri).

Ngoài ra, PTS Nguyễn Văn Thưởng cũng tiến hành nghiên cứu, sắp xếp các loại vật nuôi được chăn thả tại các vùng phù hợp nhất để tăng năng suất, như giống bò Lang trắng đen Bắc kinh nuôi ở Ba vì, sản lượng sữa chỉ đạt 1900kg sữa/chu kỳ, nhưng khi chuyển lên nuôi ở cao nguyên Mộc Châu đã tăng lên đạt 2900-3100kg sữa/chu kỳ.

Sau 10 năm thực hiện (1970-1980), ba mối liên hệ giữa thức ăn, giống và các biện pháp tăng năng suất của Viện Chăn nuôi được công nhận là tiến bộ kỹ thuật đưa vào sản xuất chăn nuôi góp phần nâng cao năng suất vật nuôi. Trong đó, phải kể đến các cải tiến về máy cắt cỏ, hệ thống chuồng trại được nâng cấp, giống cỏ mới, hay các kỹ thuật vắt và chế biến sữa… Chính vì thế, có thể coi đây, là cuộc cách mạng khoa học và kỹ thuật chăn nuôi – chìa khóa đẩy lùi lạc hậu, góp phần đáng kể thúc đẩy chăn nuôi phát triển vào những thập kỷ cuối của thế kỷ XX[2].

Vận dụng ba mối liên hiệp phát triển nông nghiệp

Sau thành công của kế hoạch 10 năm, dù đã có những thành tựu nhất định, nhưng hạn chế lúc này của Viện Chăn nuôi là công tác nghiên cứu khoa học hoàn toàn tách rời sản xuất. Điều kiện kinh tế đất nước những năm 1979-1980 rất khó khăn, do đó, kinh phí cấp cho nghiên cứu hết sức hạn chế. Nhiều đề tài phải thu gọn, thậm chí phải tạm dừng. Trong khi, tiềm năng sản xuất của Viện như đất đai, ao hồ, lao động và các giống vật nuôi sinh sản chưa được khai thác, sử dụng đúng mức và triệt để. 

Trước tình hình đó, Viện trưởng Nguyễn Văn Thưởng là một trong số ít những người đã sớm nhận thấy: cần phải đổi mới cơ chế quản lý trong công tác nghiên cứu khoa học, gắn khoa học với sản xuất. Sau nhiều đắn đo, suy nghĩ, với phương châm nghiên cứu phải nắm bắt được yêu cầu của sản xuất và đi trước sản xuất một bước. Mục tiêu chính tập trung vào việc gắn nghiên cứu khoa học với sản xuất theo 3 mối liên hiệp: Phòng thí nghiệm – Trạm, Trại thí nghiệm – Điểm thực nghiệm. Lấy điểm thực nghiệm làm khâu cuối cùng để kiểm chứng những kết quả nghiên cứu của Viện đã đạt được[3].

Kế hoạch trên đã thuyết phục được Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp Nguyễn Ngọc Trìu và Bộ cho phép Viện triển khai trong kế hoạch 5 năm 1981-1986. Với quyết tâm: năm 1981- năm xây dựng kế hoạch, năm 1982 – năm triển khai, năm 1983 – năm hành động, năm 1984 – năm bản lề, tiến lên dành thắng lợi to lớn hơn trong năm 1985 và những năm sau[4]. Viện đã thành lập Xí nghiệp Cung ứng vật tư chăn nuôi, coi đây là khâu dịch vụ quan trọng đáp ứng mọi yêu cầu về thức ăn. Từ đó, bố trí các thí nghiệm và nuôi dưỡng các loại gia súc, gia cầm, xây dựng và triển khai các mối liên hiệp giữa khoa học và sản xuất.

Theo GS Nguyễn Văn Thưởng, các mối liên hiệp khoa học và sản xuất không chỉ là để thực hiện kế hoạch đã định, mà còn để nâng cao nhận thức của các cấp quản lý về vấn đề này. Ông nhấn mạnh, trong sản xuất kinh doanh tổng hợp, ngoài sản phẩm vật nuôi cần chú ý đến nhiều sản phẩm khác (như trồng các loại cây ăn quả lấy gỗ, nuôi trồng thủy sản…).

Viện trưởng Nguyễn Văn Thưởng giới thiệu kết quả nghiên cứu của Viện với Bộ trưởng Nông nghiệp Nguyễn Ngọc Trìu, 1986

Theo quan điểm đó, cuối năm 1982 tất cả các cơ sở thuộc Viện đã ổn định cơ cấu sản xuất và đi vào triển khai trồng cây, thả cá, chăn nuôi gia súc. Đầu năm 1984, công tác nghiên cứu ở các cơ sở của Viện cũng vào nề nếp hơn. Viện có các công trình nghiên cứu cấp Nhà nước do Viện trưởng Nguyễn Văn Thưởng chủ nhiệm như: Chương trình 02.03 về Nghiên cứu và áp dụng các biện pháp khoa học và công nghệ phát triển chăn nuôi lợn theo vùng kinh tế; Chương trình 02B về Nghiên cứu và áp dụng các biện pháp tổng hợp nhằm phát triển nâng cao năng suất chăn nuôi… Những đề tài có quy mô lớn về giống đều được thử nghiệm ở đây trước khi đưa vào sản xất. Tiêu biểu như Phòng Phân tích thức ăn – chuyên làm nhiệm vụ phân tích thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng thức ăn chăn nuôi cũng trồng cây táo trên đất xung quanh phòng, lấy quả cho lên men vi sinh vật, chế biến thành rượu táo cung cấp cho tiêu dùng.

Với những nỗ lực trên, cuối năm 1982 Viện bắt đầu có lãi trong sản xuất kinh doanh, lãi năm sau cao hơn năm trước. Đặc biệt, năm 1984 số lãi từ nuôi trồng của Viện đạt cao nhất, trích một phần hỗ trợ cho công tác nghiên cứu khoa học. Cuối năm 1985, Viện cùng với mạng lưới hợp tác xã trong cả nước áp dụng tiến bộ kỹ thuật của Viện xuất khẩu được 1 triệu tấn thịt lợn hơi. Số tiền lãi thu được được, Bộ cho phép tích lũy góp phần vào cải thiện đời sống và hỗ trợ cho công tác nghiên cứu. Như vậy, Viện đã đạt được mục tiêu “Từ nghiên cứu đến sản xuất, sản xuất đã có lãi trở lại hỗ trợ nghiên cứu và mở rộng quy mô nghiên cứu” với 3 nguồn vốn: Một là vốn do Bộ cấp theo kế hoạch nghiên cứu; Hai là vốn tự có tích lũy từ sản xuất kinh doanh; Và thứ ba là vốn vay của Ngân hàng có sản phẩm đảm bảo.

Cùng những thành tích trên, phong trào thi đua trong nghiên cứu và lao động sản xuất được đẩy mạnh. Trong toàn Viện đã xuất hiện những tấm gương lao động, nghiên cứu giỏi. Năm 1985, Viện được Bộ Nông nghiệp tặng cờ luân lưu “Đơn vị làm nông nghiệp giỏi”, Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhất.

Thấm thoắt đã gần 30 năm trôi qua, kể từ khi GS Nguyễn Văn Thưởng chuyển công tác khỏi Viện Chăn nuôi, nhưng ký ức về một thời lao động hăng say vẫn luôn đọng lại trong tâm trí nhà khoa học tâm huyết ấy. Với quan điểm Nghiên cứu phải đón trước những yêu cầu của sản xuất và đi trước sản xuất một bước, ít nhất cũng phải một kế hoạch 5 năm[5] của ông, Viện Chăn nuôi đã thành cơ quan đầu ngành trong nghiên cứu về giống, đưa ra hướng phát triển ngành chăn nuôi phục vụ cho đời sống nhân dân. Đây cũng giai đoạn đánh dấu bước phát triển vượt bậc của Viện và có những đóng góp quan trọng mang tính bản lề đối với ngành Nông nghiệp Việt Nam sau này.

Nguyễn Thị Loan 

 

[1] Trích Hồi ký “Những năm tháng học tâp, công tác và nghiên cứu khoa học” của GS.TS Nguyễn Văn Thưởng, năm 2011 (Bản in).

[2] Báo cáo Tổng kết 10 năm hoạt động và nghiên cứu khoa học (1969-1979), PTS Nguyễn Văn Thưởng – Viện trưởng Viện Chăn nuôi, năm 1979.

[3] Phỏng vấn, ghi hình GS.TS Nguyễn Văn Thưởng, ngày 8-6-2013.

[4] Báo cáo Viện Chăn nuôi 15 năm nghiên cứu khoa học và sản xuất (1969-1984), PTS Nguyễn Văn Thưởng – Viện trưởng Viện Chăn nuôi, năm1984.

[5] Phỏng vấn, ghi hình GS.TS Nguyễn Văn Thưởng, ngày 8-6-2013.