Giáo sư, Tiến sĩ Ngô Bảo Khang là cựu sinh viên Đại học Y Hà Nội niên khóa 1954-1960. Sau khi ra trường, ông được giữ lại làm cán bộ giảng dạy và đã có nhiều năm là Phó Chủ nhiệm Bộ môn Ngoại, trường Đại học Y Hà Nội. Với ông, những năm tháng đứng trên bục giảng, gắn bó với sinh viên là khoảng thời gian đáng nhớ nhất.
Năm 1965, Mỹ bắt đầu tăng cường cuộc chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, mở rộng leo thang đánh phá miền Bắc bằng hải quân và không quân. Trong hoàn cảnh ấy, phương châm giảng dạy của trường Đại học Y Hà Nội được thảo luận qua các Hội nghị giáo dục là: cơ bản, hiện đại và thực tế Việt Nam. Vì vậy, cũng từ năm 1965 Nhà trường bắt đầu có chủ trương đưa các cán bộ giảng dạy và sinh viên về các huyện, các tỉnh học tập, thực tập và phục vụ sản xuất, phục vụ chiến đấu.
Bác sĩ Đỗ Nguyên Phương (sau là Bộ trưởng Bộ Y tế) chính là người đầu tiên đưa một tổ sinh viên năm thứ 5 đi thực tập tại Bệnh viện huyện Yên Định, Thanh Hóa trong 3 tháng. Sau 3 tháng thực tập của đoàn đầu tiên, bác sĩ Ngô Bảo Khang tiếp tục đưa một đoàn sinh viên đi thực tập. Theo bác sĩ Ngô Bảo Khang, đây là một chủ trương hoàn toàn mới nên mỗi người, nhất là các thầy giáo đều gặp phải những khó khăn nhất định. Ông còn nhớ ngày lên đường thì con ông mới sinh chưa đầy tháng, việc sắp xếp công việc nhà cũng có phần lúng túng vì không có người chăm nom vợ con đang còn rất non nớt. Dù vậy ông vẫn phải khắc phục khó khăn để nhận nhiệm vụ đưa sinh viên đi thực tập.
Chuyến đi đầu tiên có điểm đến là Bệnh viện Yên Định, Thanh Hóa. Thầy trò mỗi người một ba lô buộc sau yên xe đạp rong ruổi trên những con đường dài đến nơi làm nhiệm vụ. Những con đường đất đi qua, những nơi đã ngủ lại dần trở nên thân thuộc, chiếc xe đạp giống như một người bạn đồng hành không thể thiếu trong những chuyến đi đầy thử thách.
Hàng ngày thầy và trò vừa làm việc vừa giảng dạy, học tập trong hoàn cảnh thiếu thốn của địa phương. Tuy nhiên, vẫn phải dạy và học làm sao để đáp ứng phương châm: cơ bản, hiện đại và thực tế Việt Nam, từ đó giúp sinh viên khi ra trường không bỡ ngỡ và thích nghi với việc phục vụ bệnh nhân ở bất cứ nơi đâu, trong hoàn cảnh nào. Buổi tối, các bác sĩ, sinh viên chia nhau về ở với các gia đình tại địa phương. Tất nhiên về sinh hoạt, ăn ở rất thiếu thốn như không có ăn sáng, không có điện mà dùng dầu hỏa. Ở bệnh viện huyện không có đủ các xét nghiệm, thầy trò phải vận dụng các kiến thức về thăm khám lâm sàng tìm các triệu chứng để chẩn đoán bệnh. Khi mổ xẻ thiếu các phương tiện, thiếu máu thì phải tìm cách khắc phục làm sao vẫn thực hiện tốt các ca mổ cho bệnh nhân và không có biến chứng. Qua thực tế đó, bản thân bác sĩ Ngô Bảo Khang cũng đã tìm được cho mình một phương pháp học tập, phương pháp làm việc ở Việt Nam là phải giỏi về lâm sàng và phải tùy hoàn cảnh mà thích nghi chứ không thể đòi hỏi cầu toàn, quan trọng là bảo đảm tính mạng bệnh nhân.
Bác sĩ Ngô Bảo Khang thời gian học tập ở Cộng hòa Dân chủ Đức, 1972-1973
Có một kỷ niệm Giáo sư Ngô Bảo Khang vẫn còn nhớ. Đó là một buổi sáng, khoảng 10h, bà Khang – một nữ hộ sinh phụ trách Khoa Sản cho mời bác sĩ Ngô Bảo Khang sang hội chẩn về một ca sắp sinh được chẩn đoán là có nguy cơ vỡ tử cung. Trước đó, bà Khang đã mời một bác sĩ đa khoa Sản Ngoại của Bệnh viện Thanh Hóa đã từng làm việc ở Bệnh viện Yên Định khá lâu nhưng bác sĩ này chưa mổ về sản nhiều nên không dám quyết định. Sau khi thăm khám cho sản phụ, bác sĩ Khang cũng đồng ý với chẩn đoán của bà Khang là vỡ tử cung. Lúc này sản phụ ra huyết nhiều, không có mạch, không có huyết áp. Bác sĩ Khang nghĩ chỉ có cách phải mổ ngay để cầm máu mới có thể cứu được sản phụ, mặc dù giải pháp này cũng rất dễ gây tử vong.
Là người chuyên về Ngoại khoa và Chấn thương nên bác sĩ Khang cũng chưa mổ về sản khoa bao giờ, đặc biệt lại là trường hợp phải cắt tử cung mới có thể cứu sống bệnh nhân. Trong tình huống này, bác sĩ Ngô Bảo Khang thực sự đắn đo và lo lắng vì thời sinh viên ông chỉ được mổ dạ con lấy thai còn mổ cắt tử cung thì chỉ được đứng phụ mà thôi. Nhưng trước tính mạng bệnh nhân, nhất là không thể chuyển bệnh nhân về Bệnh viện tỉnh vì quá xa, ông đã mạnh dạn tiến hành mổ. Ông nhớ lại: “Tôi phải động viên các sinh viên của tôi cho máu. Kết quả là đã cứu được hai mẹ con sản phụ, dù sau đó phải cắt tử cung vì không có cách nào khác. Đó là ký ức cho đến bây giờ tôi vẫn nhớ mãi”.
Cũng ở Thanh Hóa, nhưng lần này là chuyến đi vào năm 1967. Khi ấy trường Đại học Y tổ chức cho một đoàn cán bộ giảng dạy đi thực tế chiến đấu tại huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, nơi có sân bay Sao Vàng (gọi khác đi là Nông trường Sao Vàng để giữ bí mật). Để bảo vệ cho đoàn cán bộ giảng dạy các bộ môn, là bác sĩ Ngoại khoa và Chấn thương nên Ngô Bảo Khang được cử đi cùng đoàn để phục vụ, phòng khi có thương vong còn cấp cứu kịp thời. Sau ba tháng sống cùng dân, chiến đấu cùng đồng nghiệp tại Thọ Xuân, đến ngày trở về trường, sau bữa cơm trưa mọi người sắp xếp hành lý buộc vào xe đạp chuẩn bị trở ra Hà Nội thì máy bay Mỹ oanh tạc sân bay Sao Vàng. Giáo sư Ngô Bảo Khang còn nhớ: “Cấp cứu và cấp cứu!!! Chúng tôi được Huyện ủy huyện Thọ Xuân và Trưởng phòng Y tế huyện đề nghị đi cấp cứu giúp. Chúng tôi phải tháo bỏ hết ba lô trên xe đạp đi cấp cứu”. Đến nơi may mắn không có ai tử vong và không ai bị thương nặng đến mức phải mổ, chỉ có số ít người dân bị thương nhẹ phải băng bó. Các bác sĩ trở về Phòng Y tế huyện, rồi đến chiều đạp xe về Hà Nội.
Năm 1967, Bộ Y tế có chủ trương tổng kết di chứng các vết thương trong chiến tranh chống Mỹ. Trường Đại học Y Hà Nội đã cử một đoàn gồm bác sĩ Vũ Văn Đính – Chuyên Khoa Nội (sau này là Chủ nhiệm Khoa A9, Bệnh viện Bạch Mai), bác sĩ Ngô Bảo Khang – Khoa Ngoại Chấn Thương, Khoa Thần kinh có bác sĩ Hinh, Khoa Lao có bác sĩ Lê Đỗ Hải, Khoa Tai Mũi Họng có bác sĩ Tuấn và một lớp sinh viên Y5 đi thực tế ở Quảng Bình để lấy số liệu tổng kết về di chứng vết thương chiến tranh. Đoàn đi bằng xe đạp vào Quảng Bình, mất mấy ngày trời, khi qua bến phà sông Gianh còn phải vượt qua một bãi bom từ trường, các cánh bom còn nổi hẳn trên mặt đất. Tuy rất sợ bom từ trường, gặp xe đạp hay sắt là có thể nổ bất cứ lúc nào nhưng cả đoàn vẫn phải dũng cảm động viên nhau vác xe đạp vượt qua bãi bom.
Ông nhớ lại, hàng ngày máy bay Mỹ vẫn bay lượn, ném bom xuống địa phương này, đoàn bác sĩ thường phải ở dưới hầm, nhưng thầy trò vẫn tổ chức khám cho nhân dân. Sinh hoạt ăn uống cũng rất cực khổ, không có ăn sáng, hàng quán cũng không có, đến bữa cơm chỉ có vài con cá mòi, thậm chí có tiền cũng không mua được cái ăn dù chỉ là của khoai lang hay củ sắn vì không có người bán. Sau đợt công tác, Đoàn đã gửi Báo cáo về chuyến đi lên Bộ Y tế, Bộ đã tổ chức Hội nghị Y tế toàn quốc, phổ biến cho các tỉnh để có kế hoạch giải quyết vấn đề trong thời chiến.
Trên các chuyến đi thực tế và phục vụ chiến đấu ở Thanh Hóa, Hà Nam và Quảng Bình, chiếc xe đạp là phương tiện duy nhất, gắn bó với bác sĩ Ngô Bảo Khang và các đồng nghiệp. Có những cuộc hành quân đi suốt đêm, hàng mấy trăm cây số trên những nẻo đường gồ gề đầy hiểm nguy. Trong những chuyến đi ấy, những chiến sĩ áo trắng phải chuẩn bị mang theo chút lương thực thực phẩm, một ít cá khô, tôm khô… để phòng khi nhỡ bữa thì đem ra ăn cho có sức hành quân tiếp. Hương vị khó tả của những con cá khô, tôm khô khi ấy đã là thứ gia vị của quá khứ theo ông trong những năm tháng làm bác sĩ ở chiến trường.
Thoáng đó, nhìn lại mà đã gần nửa thế kỷ với những chuyến đi dài, những trải nghiệm thú vị. Và theo Giáo sư Ngô Bảo Khang, dù ở bất cứ nơi nào, đã khoác lên mình chiếc Blouse trắng của người bác sĩ thì ông luôn thấy có trách nhiệm phải hoàn thành nhiệm vụ của mình một cách xuất sắc nhất.
Nguyễn Thanh Hóa
Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam